Hơn 3 thập kỷ qua, PGS.TS. Chung Á là một trong những người tiên phong trong việc góp phần quan trọng xây dựng chính sách, thúc đẩy thay đổi nhận thức, mở đường cho những cách tiếp cận nhân văn, thực tế – giúp hàng vạn người sống có cơ hội được chăm sóc, điều trị, được tôn trọng và hòa nhập…
Người dấn thân giữa nỗi sợ
Những năm đầu thập niên 1990, khi đại dịch HIV/AIDS bắt đầu được nhắc đến ở Việt Nam, nỗi sợ bao trùm khắp nơi. Người ta tránh né, kỳ thị, sợ chạm, sợ nói, sợ cả cái tên của căn bệnh. Có người khi biết mình nhiễm đã tìm đến cái chết, không phải vì bệnh, mà vì bị cả xã hội quay lưng. Trong bối cảnh ấy, có một nhà khoa học quyết định bước vào vùng tối ấy với niềm tin giản dị: "Nếu tất cả đều sợ hãi, ai sẽ là người đứng lại?". Người ấy là PGS.TS Chung Á.
Ông kể, thời ấy HIV không chỉ gây ra cái chết về thể xác, mà còn là "cái chết về tinh thần". Ông chứng kiến nhiều người chưa chết vì bệnh đã chết vì sự kỳ thị phân biệt đối xử của xã hội. Với ông, đó là điều không thể chấp nhận. Khi ấy, ông vừa bảo vệ thành công luận án tiến sỹ từ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Đức trở về, được GS. Nguyễn Đức Bình, Giám đốc học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh giao cho việc thành lập Trung tâm Xã hội học tin học của học viện. Ông là giám đốc đầu tiên của Trung tâm này. Ông đang giảng dạy và nghiên cứu về các hiện tượng xã hội, một công việc an toàn và ít va chạm. Khi nghiên cứu về HIV/AIDS, ông nhận ra dịch bệnh đã chẳng những là một vấn đề y tế mà con là vấn đề tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vì vậy cần phải có cách tiếp cận khoa học và nhân văn.
"Tôi hiểu rằng mình không thể đứng ngoài. Nếu nhà khoa học chỉ ngồi trong phòng nghiên cứu, còn ngoài kia xã hội đang rúng động vì sợ hãi, thì kiến thức ấy có ích gì?" – ông nói. Từ đó, ông rời vị trí an toàn để dấn thân vào lĩnh vực đầy rủi ro và định kiến. Ông hiểu rằng muốn phòng, chống HIV/AIDS hiệu quả thì phải có các nghiên cứu khoa học, nhằm đánh giá tình hình để tìm ra nguyên nhân và các giải pháp phù hợp. Nhưng giữa lúc kinh phí eo hẹp, "lấy tiền đâu để làm nghiên cứu?" là câu hỏi thường trực.

Những cán bộ đầu tiên của Uỷ ban Quốc gia Phòng, chống AIDS Việt Nam.
Không đành lòng đứng nhìn những con người gánh chịu nỗi đau và sự kỳ thị do HIV/AIDS, ông khởi động những dự án và công trình đầu tiên về HIV cùng các vấn đề liên quan như ma túy, mại dâm và phân biệt đối xử. Không có tiền, ông đi vận động, gõ cửa các tổ chức quốc tế, kêu gọi hỗ trợ, vừa giảng dạy, vừa thực hiện những đề tài mà ông xem là "mệnh lệnh của trái tim". Chính những nỗ lực ấy đã tạo nền tảng khoa học đầu tiên cho công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
Năm 1992, ông biên soạn giáo trình "HIV/AIDS và lãnh đạo công tác phòng, chống HIV trong tình hình hiện nay" – một trong những tài liệu đào tạo đầu tiên về HIV ở Việt Nam dành cho các nhà lãnh đạo và quản lý của đất nước. Dù nhiều người còn dè dặt, ông vẫn kiên trì vận động để môn học này được đưa vào các trường chính trị, học viện, đại học. Hàng vạn cán bộ sau đó được đào tạo, góp phần xóa dần nỗi sợ bằng tri thức.
Nhà hoạch định chính sách và người mở đường
Năm 1996, trước tình hình lây nhiễm HIV ngày càng phức tạp, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia Phòng chống AIDS Việt Nam lúc bấy giờ đã đề cử và Thủ tướng Chính phủ quyết định cử PGS. Chung Á làm Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Phòng, chống AIDS Việt Nam.
"Bộ máy khi ấy chỉ có chưa đầy chục người, nhưng gánh vác nhiệm vụ cực kỳ lớn: Xây dựng Chiến lược quốc gia, điều phối mạng lưới phòng chống AIDS trên cả nước và tháo gỡ hàng loạt rào cản pháp lý, nhận thức, xã hội", ông nhớ lại.
Thời điểm đó, nhiều người phản đối việc phát bao cao su, phát kim tiêm sạch cho người nghiện ma túy, cho rằng đó là "khuyến khích tệ nạn". Nhưng ông nhìn khác: "Nếu họ đã tiêm chích, thì việc phát bơm kim tiêm sạch không phải để cổ vũ, mà để ngăn ngừa lây lan HIV ra cộng đồng. Nếu chưa cứu được một người thì có thể cứu cả cộng đồng". ông giải thích.
Với tư duy ấy, ông kiên trì vận động và thúc đẩy các chương trình giảm hại – trao đổi bơm kim tiêm, phát bao cao su, điều trị nghiện bằng Methadone. Những can thiệp này ban đầu bị chỉ trích dữ dội, song dần chứng minh hiệu quả và được Quốc tế công nhận như một trong những bước ngoặt giúp Việt Nam giảm mạnh tốc độ lây nhiễm.
"Phải mất gần 10 năm kiên trì, việc điều trị nghiện bằng Methadone mới dần nhận được sự đồng thuận và chính thức được triển khai rộng rãi trong công tác can thiệp giảm tác hại"- ông kể.
PGS. Chung Á chia sẻ, đối với ông, phòng chống HIV/AIDS không chỉ là phòng và chữa bệnh, mà còn là "chống kỳ thị, khơi dậy tình thương". Ông cho rằng căn nguyên sâu xa của việc lan truyền nhanh dịch bệnh nằm ở sự sợ hãi và xa lánh .
"Kỳ thị không chỉ ở hành động mà ở trong tâm thức. Muốn thay đổi, phải bắt đầu từ nhận thức". Chính từ niềm tin ấy, ông khởi xướng các nhóm cộng đồng "Bạn giúp bạn" – nơi những người sống chung với HIV hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ câu chuyện, động viên tinh thần và lan tỏa hy vọng. Từ đó, nhiều tấm gương đã vươn lên trở thành tuyên truyền viên tích cực, góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội về người nhiễm HIV.

PGS.TS Chung Á giảng dạy về phòng chống HIV/AIDS và công tác xã hội tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Cùng thời gian này, ông còn tổ chức các khóa đào tạo cho cán bộ chính trị, y tế, truyền thông, giúp hàng nghìn người hiểu rằng HIV không thể loại bỏ bằng sợ hãi, mà bằng tri thức và nhân ái. Chính nhờ sự kết nối giữa Nhà nước, cộng đồng và các tổ chức quốc tế, ngân sách cho phòng chống HIV/AIDS tăng dần. Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, CHLB Đức, Pháp, Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức Phi chính phủ Quốc tế khác để chăm sóc điều trị, can thiệp giảm tác hại và truyền thông. Các chương trình như PEPFAR đã giúp hàng trăm nghìn người được điều trị ARV miễn phí, kéo dài sự sống và giảm lây nhiễm. Ông gọi đó là "sự kết nối giữa bàn tay chính sách và trái tim con người".
Từ góc nhìn của một nhà xã hội học, PGS Chung Á luôn nhấn mạnh vai trò của truyền thông. Ông cho rằng truyền thông là "mũi tiên phong" trong giai đoạn đầu và vẫn là "chiếc chìa khóa vàng" ở giai đoạn hiện nay.
"Chúng ta không thể thắng HIV nếu không thay đổi hành vi, mà hành vi chỉ thay đổi khi nhận thức thay đổi". Tư duy ấy khiến ông luôn đặt trọng tâm vào việc tuyên truyền, giáo dục và đào tạo – từ lớp học, trường chính trị đến cộng đồng dân cư. Chính điều đó đã giúp hình thành nền tảng bền vững cho công tác phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam suốt hơn ba thập kỷ.

Đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự khóa họp đặc biệt lần thứ 21 về HIV/AIDS tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại New York.

PGS.TS Chung Á (người đứng thứ 2 từ trái sang) tham dự Hội nghi toàn cầu về HIV/AIDS năm 2000 tại Durban Nam Phi.

PGS.TS Chung Á (người đầu tiên từ trái sang) tham dự Hội nghị toàn cầu về HIV/AIDS năm 2000 tại Durban, Nam Phi.

PGS.TS Chung Á và bà Hillary Clinton sau khi trao đổi về việc Hoa kỳ sẽ đưa Việt Nam vào Chương trình PEPFAR.
Hành trình chưa dừng lại
Hơn 30 năm nhìn lại, Việt Nam đã đi một chặng đường dài. Tỷ lệ nhiễm mới giảm mạnh, hàng trăm nghìn người được điều trị, kỳ thị xã hội giảm đáng kể. HIV từ "bản án tử" đã trở thành bệnh mạn tính có thể kiểm soát. Nhưng khi nói về thành tựu ấy, PGS Chung Á không giấu được nỗi lo lắng. Theo báo cáo của Bộ Y tế, từ năm 2020 đến nay, Việt Nam ghi nhận trung bình hơn 13.000 ca nhiễm HIV mới mỗi năm. Năm 2024, con số này là 13.351 ca, với 1.905 trường hợp tử vong do AIDS.
Kể từ ca nhiễm đầu tiên được phát hiện năm 1990 tại TP HCM, đến nay ước tính có khoảng 267.000 người đang sống chung với HIV – và Việt Nam là một trong số ít quốc gia có người nhiễm ở cả 63 tỉnh, thành. Theo PGS Chung Á, hình thái lây nhiễm HIV đã thay đổi rõ rệt. Tỷ lệ lây qua đường máu giảm mạnh – từ 47% năm 2010 xuống còn 6,5%, trong khi lây truyền qua đường tình dục tăng lên 70%, trở thành con đường chính. Đáng chú ý, nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) đang là nhóm nguy cơ cao nhất trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, ông cho rằng kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn chưa được xóa bỏ hoàn toàn. "Sự hiểu biết về HIV/AIDS trong cộng đồng vẫn còn hạn chế, khiến nhiều người e ngại tiếp cận dịch vụ, đặc biệt là các nhóm nguy cơ cao. Lớp trẻ bây giờ ít quan tâm đến HIV, trong khi hành vi tình dục không an toàn lại tăng. Nếu không tiếp tục truyền thông, dịch có thể bùng trở lại bất cứ lúc nào"- ông trăn trở.
Ông đặc biệt lo về sự gia tăng lây nhiễm trong nhóm nam quan hệ đồng giới – nhóm chịu "kỳ thị kép" vì giới tính và bệnh tật. Nếu xã hội không cảm thông, họ sẽ lẩn trốn. Mà khi họ lẩn trốn, công tác phòng chống sẽ gặp bế tắc. Với ông, bài học lớn nhất của hơn ba thập kỷ qua là chỉ có tình thương và tri thức mới cứu được con người.

PGS.TS Chung Á vẫn làm việc với vai trò chuyên gia tư vấn Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống ma túy, mại dâm; vẫn đọc, góp ý chính sách và dõi theo từng bước tiến của chương trình Quốc gia.
Trong bối cảnh nguồn viện trợ Quốc tế giảm, ông kêu gọi Việt Nam phải chủ động hơn về kinh phí, huy động doanh nghiệp, ngân sách nhà nước và cộng đồng để duy trì các chương trình điều trị, dự phòng, truyền thông. "Đừng nghĩ viện trợ sẽ mãi còn. Chúng ta phải tự đứng bằng đôi chân của mình, vì đây không chỉ là cuộc chiến y học, mà là cuộc chiến văn hóa và nhận thức" - ông nhấn mạnh.
Giờ đây, dù đã ngoài 80 tuổi, ông vẫn làm việc với vai trò chuyên gia tư vấn Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống ma túy, mại dâm; vẫn đọc, góp ý chính sách và dõi theo từng bước tiến của chương trình Quốc gia. Cái tên Chung Á vẫn gắn liền với danh xưng "người mở đường cho công cuộc phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
"HIV/AIDS không phải dấu chấm hết. Điều tàn khốc nhất không phải là virus, mà là sự vô cảm"- PGS Chung Á nói. Có lẽ vì không thể thờ ơ với nỗi đau con người, ông đã chọn con đường khó nhất để soi sáng niềm tin rằng trong mọi dịch bệnh, nhân ái vẫn là liều thuốc mạnh nhất.
Theo PGS Chung Á, Việt Nam đạt được những kết quả "rất ấn tượng": 95% người nhiễm HIV có bảo hiểm y tế, gần 90% người điều trị ARV được chi trả từ quỹ BHYT và hơn 95% người điều trị đạt tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế, nghĩa là không còn khả năng lây truyền cho người khác.
Tuy nhiên, để hướng tới mục tiêu chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030, Việt Nam vẫn phải nỗ lực nhiều hơn. Dịch bệnh chưa kết thúc – nó đang âm thầm dịch chuyển, ẩn mình trong những nhóm nguy cơ cao. Những thách thức mới đòi hỏi cách tiếp cận linh hoạt hơn, truyền thông sáng tạo hơn và sự chung tay mạnh mẽ hơn của toàn xã hội.
