Thông tin này được Bộ Y tế và Bộ Công Thương công bố sáng 25/8 tại TPHCM trong Hội thảo "Mỹ phẩm: Từ công bố, sản xuất đến đảm bảo chất lượng".
Thách thức quản lý mỹ phẩm
Theo TS Tạ Mạnh Hùng – Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế), một thống kê đáng chú ý từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy, hiện có khoảng 50% mỹ phẩm giả đang rao bán trên mạng toàn cầu. Đây là thách thức lớn trong lĩnh vực quản lý dược phẩm, mỹ phẩm đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, thị trường mỹ phẩm trị giá khoảng 2,4 tỷ USD mỗi năm. Dù thị trường không hề nhỏ, song sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất mỹ phẩm nội địa hiện còn khá khiêm tốn. Trên thị trường mỹ phẩm ở Việt Nam hiện nay, hầu hết là các thương hiệu nước ngoài và là "mảnh đất màu mỡ" của mỹ phẩm giả.

TS Tạ Mạnh Hùng – Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) chia sẻ tại Hội thảo.
"Số lượng tiêu thụ lớn, lợi nhuận cao đã khiến mỹ phẩm trở thành mục tiêu làm nhái, làm giả của các đối tượng phi pháp. Bên cạnh đó, tình trạng sản xuất, kinh doanh mỹ phẩm tự chế (handmade), mỹ phẩm nhà làm (homemade) có xu hướng nở rộ trong những năm gần đây, làm tăng thách thức trong việc kiểm soát...", TS Tạ Mạnh Hùng nêu thực trạng.
Cũng theo chuyên gia, mặc dù biết rõ rằng việc sử dụng các mỹ phẩm không rõ xuất xứ, nguồn gốc có thể gây ra những hậu họa khôn lường cho sức khỏe, tuy nhiên với tâm lý ham rẻ, không ít người người tiêu dùng vẫn bất chấp các nguy cơ, vẫn tìm mua các mỹ phẩm trôi nổi trên thị trường. Chính tâm lý này cũng là một trong những hành vi tiếp tay cho vấn nạn mỹ phẩm giả tràn lan.
Để vấn đề quản lý, kiểm soát, hạn chế mỹ phẩm giả hiệu quả hơn, trong thời gian tới, lãnh đạo Cục Quản lý Dược đề xuất 4 nội dung.
Để quản lý, kiểm soát, hạn chế mỹ phẩm giả tốt hơn, Cục Quản lý Dược đề xuất:
- Tăng cường quản lý và hậu kiểm: Xây dựng hệ thống hậu kiểm hiệu quả hơn, định kỳ kiểm tra sản phẩm trên thị trường; Nâng cao chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm trong công bố, quảng cáo, sản xuất mỹ phẩm; Thiết lập cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc minh bạch, dễ dàng tra cứu.
- Hỗ trợ phát triển mỹ phẩm sản xuất trong nước: Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu phát triển sản phẩm (R&D), công nghệ sản xuất, bao bì, tiêu chuẩn hóa chất lượng; Xây dựng thương hiệu mỹ phẩm Việt gắn với giá trị tự nhiên và truyền thống (ví dụ: thảo dược, nguyên liệu bản địa); Tạo điều kiện về vốn, xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường quốc tế.
- Nâng cao nhận thức người tiêu dùng: Tổ chức chiến dịch truyền thông về mỹ phẩm an toàn, hướng dẫn cách chọn lựa sản phẩm uy tín; Khuyến khích người tiêu dùng báo cáo vi phạm, sử dụng các công cụ kiểm tra sản phẩm công bố (website Cục Quản lý Dược).
- Phối hợp liên ngành và quốc tế: Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng (Y tế, Công Thương, Hải quan, Quản lý thị trường, Công an); Học hỏi kinh nghiệm quản lý mỹ phẩm từ các nước trong khu vực ASEAN và trên thế giới để vận dụng, áp dụng vào quản lý mỹ phẩm tại Việt Nam.
Cần dữ liệu dùng chung
Bà Lê Thị Hà – Trưởng phòng Quản lý Hoạt động thương mại điện tử - Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) - cho biết, mỹ phẩm mua qua sàn thương mại điện tử chiếm đến 60% thị phần, nhưng tình trạng nhái thương hiệu, quảng cáo sai công dụng, bán hàng giả qua livestream vẫn phổ biến. Điều này khiến vấn đề kiểm soát nguồn gốc và chất lượng mỹ phẩm trên các sàn thương mại điện tử trở nên cấp thiết.
"Với mỹ phẩm, nhiều hành vi vi phạm tinh vi như nhái thương hiệu, hàng giả, hàng không công bố sản phẩm, hàng quảng cáo sai công dụng, hoặc hành vi lợi dụng hình thức livestream để bán sản phẩm kém chất lượng. Những hành vi này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho người tiêu dùng, mà còn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng" – bà Hà thông tin thêm.

Mỹ phẩm giả đổ đống ở TPHCM trong đợt cao điểm phòng, chống hàng giả thời gian qua.
Bà Hà còn chỉ ra một số hạn chế trong quản lý nhà nước về kinh doanh mỹ phẩm trên môi trường thương mại điện tử. Theo đó, trách nhiệm kiểm tra nguồn gốc mỹ phẩm hiện thuộc về người bán. Song, các giấy tờ liên quan tới tính hợp pháp của sản phẩm đang rất khó đối chiếu vì thiếu dữ liệu. Thậm chí, những giấy tờ này có bị làm giả thì người bán cũng đành "bó tay".
Ngoài ra, quy định hiện hành chỉ áp dụng đối với nhà sản xuất mỹ phẩm và trong khâu sản xuất, mà chưa có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ khi tham gia kinh doanh mỹ phẩm. "Việc này khiến người bán có thể tùy tiện chỉnh sửa nội dung để lợi dụng kinh doanh hàng giả, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ. Đáng nói là, trong tình huống này thì chủ quản nền tảng số còn đang thiếu cơ chế kiểm tra...", bà Hà lưu ý.
Cũng theo chuyên gia, để kiểm soát nguồn gốc và chất lượng mỹ phẩm trên các sàn thương mại điện tử thuận lợi, hiệu quả hơn, cần có dữ liệu dùng chung để các cơ quan, đơn vị liên quan kiểm tra chéo, đối soát kịp thời các loại mỹ phẩm hay các nhà sản xuất, phân phối mỹ phẩm trên sàn thương mại điện tử.
"Thực tiễn cho thấy, thương mại điện tử ngày càng trở thành kênh phân phối quan trọng, thiết yếu. Việc kiểm soát nguồn gốc và chất lượng mỹ phẩm trên môi trường số không chỉ là yêu cầu bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, mà còn là nhiệm vụ quan trọng để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường" – bà Hà nhấn mạnh.
Chuyên gia còn khẳng định, việc sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại điện tử, phân cấp quản lý về địa phương, cùng với ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, sẽ mở ra cơ hội hình thành một cơ chế kiểm soát minh bạch, hiệu quả hơn.
"Việc xây dựng cơ sở dữ liệu chia sẻ, ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc và sửa đổi Luật Thương mại điện tử sẽ là chìa khóa để thương mại điện tử trở thành kênh phân phối tin cậy của ngành mỹ phẩm, vừa bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, vừa tạo môi trường kinh doanh bền vững", bà Hà thông tin thêm.
Tại hội thảo, các diễn giả khác đến từ Bệnh viện Da liễu TPHCM, Viện Kiểm nghiệm Thuốc TPHCM, Hiệp Hội Thương mại điện tử Việt Nam, Công ty Luật Sở hữu Trí Tuệ Điểm Tựa Vàng, Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng..., cũng đã trình bày những tham luận liên quan mật thiết tới mỹ phẩm giả, cách thức hạn chế mỹ phẩm gia ra thị trường...