Các yếu tố hành vi làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim
TS.BS. Phan Thảo Nguyên, Phó Giám đốc, Phụ trách điều hành Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E cho biết, các yếu tố nguy cơ hành vi quan trọng nhất của bệnh tim và đột quỵ là chế độ ăn uống không lành mạnh, ít vận động, hút thuốc lá và lạm dụng rượu bia.
Chế độ ăn uống không lành mạnh: Chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa và cholesterol có liên quan đến bệnh tim và các tình trạng liên quan, chẳng hạn như xơ vữa động mạch. Ngoài ra, quá nhiều muối (natri) trong chế độ ăn có thể làm tăng huyết áp, là yếu tố nguy cơ cao gây bệnh tim mạch.
Ít vận động: Lối sống tĩnh tại, không vận động đủ có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý khác dễ dẫn đến bệnh tim như béo phì, huyết áp cao, cholesterol cao và đái tháo đường. Hoạt động thể chất thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim.
Uống quá nhiều rượu: Tiêu thụ rượu quá nhiều có thể làm tăng huyết áp, tăng nồng độ triglyceride và nguy cơ mắc bệnh tim. Để ngăn ngừa nguy cơ, phụ nữ không nên uống quá 1 ly mỗi ngày, nam giới không nên uống quá 2 ly mỗi ngày.
Hút thuốc lá: Hút thuốc lá có thể gây tổn thương tim và mạch máu, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim như xơ vữa động mạch và đau tim. Cụ thể, chất nicotine có trong thuốc lá làm tăng huyết áp. Carbon monoxide từ khói thuốc lá làm giảm lượng oxy mà máu có thể vận chuyển. Tiếp xúc với khói thuốc lá cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, ngay cả đối với những người không hút thuốc.
Các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ: Bao gồm căng thẳng stress, di truyền, tiền sử gia đình, tuổi tác, giới tính, chủng tộc, sắc tộc.

Ít vận động là yếu tố nguy cơ hành vi cao gây bệnh tim mạch.
Những yếu tố gián tiếp làm tim dễ tổn thương
Một số tình trạng sức khỏe như tăng huyết áp, tiểu đường hay mỡ máu cao… có thể không trực tiếp gây bệnh tim, nhưng chúng gián tiếp làm tăng nguy cơ, tạo điều kiện cho tim phải hoạt động vất vả và dễ gặp vấn đề về lâu dài.
Bệnh lý huyết áp: Huyết áp cao là một yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim. Đây là tình trạng xảy ra khi áp lực máu trong động mạch và các mạch máu khác quá cao. Nếu không được kiểm soát, huyết áp cao có thể ảnh hưởng đến tim và các cơ quan chính khác của cơ thể, bao gồm thận và não... Tuy nhiên, TS.BS. Phan Thảo Nguyên còn cảnh báo, tình trạng huyết áp thấp cũng có thể gây ra đột quỵ do thiếu máu não. Do đó, người bị huyết áp thấp cần đặc biệt cẩn trọng khi thay đổi tư thế, đặc biệt không đột ngột đứng lên, ngồi xuống.
Cholesterol cao: Có hai loại cholesterol chính trong máu: LDL (lipoprotein tỷ trọng thấp) – thường được gọi là cholesterol ‘xấu’, có thể gây tích tụ mảng bám trong động mạch và HDL (lipoprotein tỷ trọng cao) – hay cholesterol ‘tốt’. Nồng độ cao của HDL giúp bảo vệ tim bằng cách vận chuyển cholesterol dư thừa từ các mạch máu về gan để đào thải, đồng thời giảm nguy cơ xơ vữa động mạch. Cholesterol cao thường không có triệu chứng rõ ràng, vì vậy cách duy nhất để phát hiện là xét nghiệm máu.
Bệnh đái tháo đường: Cơ thể cần glucose (đường) để tạo năng lượng. Insulin là một hormone được sản xuất trong tuyến tụy, giúp vận chuyển glucose từ thức ăn đến các tế bào của cơ thể để tạo năng lượng. Nếu mắc bệnh đái tháo đường, cơ thể không sản xuất đủ insulin, không thể sử dụng insulin của chính mình tốt như bình thường hoặc cả hai.
Đái tháo đường khiến đường tích tụ trong máu. Nguy cơ tử vong do bệnh tim ở người lớn mắc bệnh đái tháo đường cao hơn so với người lớn không mắc bệnh. Hãy trao đổi với bác sĩ về các cách phòng ngừa hoặc kiểm soát bệnh lý này và kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác.
Béo phì: Béo phì là tình trạng thừa mỡ trong cơ thể. Béo phì có liên quan đến nồng độ cholesterol "xấu" và triglyceride cao hơn, nồng độ cholesterol "tốt" thấp hơn. Béo phì có thể dẫn đến huyết áp cao và đái tháo đường đường cũng như bệnh tim.
Khi các yếu tố nguy cơ được cộng gộp thì khả năng mắc bệnh tim mạch càng tăng cao.
Cơ chế gây bệnh tim mạch là gì?
TS.BS. Phan Thảo Nguyên cho biết, có nhiều cơ chế gây bệnh tim mạch, chủ yếu bao gồm:
- Cơ chế gây tắc nghẽn mạch máu: Cơ chế chính gây bệnh thường bắt nguồn từ xơ vữa động mạch. Quá trình này diễn ra khi cholesterol "xấu" (LDL-C) và các chất béo tích tụ ở trong thành động mạch, ở lớp giữa nội mô và lớp trung mô, dần dần hình thành mảng xơ vữa. Khi mảng này lớn lên hoặc vỡ ra, nó có thể gây hẹp, thậm chí tắc nghẽn, cản trở dòng chảy của máu. Hậu quả là gây tắc mạch chi, nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.
- Cơ chế của lóc động mạch: Là lớp áo trong của thành động mạch bị rách, cho phép máu tràn vào lớp áo giữa, làm cho các lớp của thành động mạch bị tách rời nhau và tạo thành hai lớp riêng biệt là lòng thật và lòng giả. Dòng máu chảy trong lòng giả tiếp tục lan rộng vết rách, bào mòn thành mạch và có thể dẫn đến vỡ động mạch, gây nguy hiểm đến tính mạng.
- Cơ chế gây phình động mạch: Phình mạch cũng do tăng áp lực liên tục của dòng máu, dẫn đến sự giãn nở bất thường khiến thành mạch yếu đi. Đến một thời điểm nhất định, thành mạch không còn chịu được áp lực máu nữa, dần dần phồng ra tạo thành túi phình, làm tăng nguy cơ bị vỡ và chảy máu.
Ngoài ra, còn một số cơ chế khác tùy thuộc vào từng bệnh lý khác nhau như dị dạng mạch não, hội chứng Marfan còn có yếu tố gia đình, gen...