1. Viêm phổi ở trẻ em là gì?
Viêm phổi ở trẻ em hay người lớn là một trong các tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp cấp, ảnh hưởng chủ yếu đến phổi. Phổi được tạo thành từ các phế nang. Khi bị viêm phổi, các phế nang chứa đầy dịch lỏng và mủ gây khó thở và giảm lượng oxy hấp thụ vào máu.
Theo WHO, viêm phổi là bệnh truyền nhiễm gây tử vong cao nhất cho trẻ em trên toàn thế giới. Năm 2019, có 740.180 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong do viêm phổi. Con số này chiếm 14% tổng số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi và 22% tổng số ca tử vong ở trẻ em từ 1 đến 5 tuổi. Tỷ lệ tử vong này cao nhất ở Nam Á và Châu Phi cận Sahara.
Ở Việt Nam theo số liệu thống kê ở các cơ sở y tế đều cho thấy, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em là nguyên nhân cao nhất đến khám bệnh và vào điều trị tại các bệnh viện. Tử vong do viêm phổi cũng đứng hàng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong ở trẻ em.
2. Nguyên nhân, triệu chứng của viêm phổi ở trẻ em
2.1. Nguyên nhân viêm phổi ở trẻ em
Do vi khuẩn
Để tìm nguyên nhân vi khuẩn gây viêm phổi người ta dựa vào 3 phương pháp:
- Cấy dịch chọc hút phổi qua thành ngực.
- Cấy máu.
- Cấy dịch tỵ hầu.
Tuy vậy mỗi loại cấy đều có những ưu, nhược điểm khác nhau. Cấy máu và cấy dịch chọc hút qua thành ngực có nhược điểm là độ nhạy thấp. Cấy dịch tỵ hầu có độ đặc hiệu thấp do khó phân biệt được với các trường hợp vi khuẩn sống cộng sinh ở mũi hầu trẻ em.
Tuy vậy, các nghiên cứu đều thống nhất rằng, vi khuẩn hay gặp nhất trong viêm phổi cộng đồng là S. pneumonia và H. influenzae, sau đó là S. aureus và K. pneumonia…
Gần đây, các vi khuẩn không điển hình ngày càng chiếm ưu thế ở nhóm trẻ trên 5 tuổi đó là M. pneumonia, Chlamydia spp. và Legionella.
Do virus
Các virus gây viêm phổi thường gặp bao gồm:
- Virus hợp bào đường hô hấp (RSV).
- Virus cúm A, B.
- Human metapneumovirus và adenovirus.
Những năm gần đây, SARS-CoV-2 là nguyên nhân viêm phổi do virus nổi lên thành đại dịch COVID-19.
Nhiễm virus đường hô hấp ban đầu cũng có thể làm tăng nguy cơ viêm phổi do vi khuẩn thứ phát. Hoặc đôi khi cũng gặp những trường hợp viêm phổi phối hợp giữa các virus và vi khuẩn với nhau, hoặc giữa virus với vi khuẩn.
Do ký sinh trùng, nấm
Mặc dù hiếm gặp nhưng Histoplasmosis toxoplasmosis và candida cũng có thể gây viêm phổi ở trẻ em trong một số hoàn cảnh đặc biệt.
Viêm phổi ở trẻ em hay người lớn là một trong các tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp cấp, ảnh hưởng chủ yếu đến phổi.
2.2. Triệu chứng viêm phổi ở trẻ em
Thở nhanh
Nghiên cứu triệu chứng lâm sàng giúp cho chẩn đoán viêm phổi và mức độ nặng của bệnh. Các tác giả nhận thấy thở nhanh là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán viêm phổi cao nhất. Đối với trẻ dưới 5 tuổi, tiêu chuẩn thở nhanh theo phân loại của WHO là:
- ≥ 60 lần/phút đối với trẻ <2 tháng tuổi.
- ≥ 50 lần/phút đối với trẻ 2 tháng-12 tháng tuổi.
- ≥ 40 lần/phút đối với trẻ 1-5 tuổi.
Nhiều nghiên cứu cho thấy thở nhanh là dấu hiệu sớm có giá trị trong chẩn đoán viêm phổi dựa vào lâm sàng vì có độ nhạy và độ đặc hiệu cao so với chẩn đoán viêm phổi bằng X-quang.
Tuy nhiên đếm nhịp thở cũng gặp khó khăn đối với một số trẻ nhỏ hay sợ và kích thích hoặc quấy khóc. Khi đó nhịp thở có thể tăng lên, vì vậy phải đếm nhịp thở khi trẻ nằm yên hoặc khi ngủ. Đối với trẻ nhỏ dưới 2 tháng tuổi cần phải đếm 2 lần và cả 2 lần đều ở mức ≥ 60 lần thì mới coi là thở nhanh.
Thở nhanh là triệu chứng hay gặp của viêm phổi ở trẻ 12-36 tháng tuổi. Tuy nhiên đối với trẻ trên 36 tháng thì độ nhạy của dấu hiệu thở nhanh lại tương đối thấp. Đối với trẻ dưới 1 tuổi nếu nhịp thở trên 70 lần/phút thường là triệu chứng của viêm phổi nặng.
Theo WHO, viêm phổi là bệnh truyền nhiễm gây tử vong cao nhất cho trẻ em trên toàn thế giới. Ảnh minh họa.
Ran ẩm nhỏ hạt
Ran ẩm nhỏ hạt cũng là dấu hiệu trong chẩn đoán viêm phổi. Tuy nhiên theo nghiên cứu của nhiều tác giả thì ran ẩm nhỏ hạt có độ nhạy thấp so với viêm phổi được chẩn đoán xác định bằng Xquang.
Hơn nữa ngay cả các thầy thuốc có kinh nghiệm cũng không hoàn toàn thống nhất với nhau khi nghe ran ẩm và sự phù hợp dựa vào chỉ số Kappa chỉ từ 0,21-0,44. Điều đó có nghĩa là trên cùng một bệnh nhân thì có thể bác sĩ này nghe thấy ran ẩm nhưng bác sĩ khác lại cho rằng bệnh nhân đó không có ran ẩm.
Rút lõm lồng ngực
Rút lõm lồng ngực là dấu hiệu của viêm phổi nặng. Để phát hiện dấu hiệu này cần nhìn vào phần dưới lồng ngực (1/3 dưới) lõm vào khi trẻ hít vào. Ở trẻ dưới 2 tháng tuổi nếu chỉ rút lõm lồng ngực nhẹ thì vẫn bình thường vì lồng ngực của trẻ nhỏ còn mềm, nên khi thở bình thường cũng có thể hơi bị rút lõm. Những trẻ này rút lõm lồng ngực mạnh (lõm sâu và dễ nhìn thấy) mới có giá trị để chẩn đoán.
Sốt cao
Sốt cao cũng là triệu chứng thường gặp trong viêm phổi. Khò khè có thể gặp khoảng 30% ở trẻ lớn bị viêm phổi do mycoplasma. Tuy nhiên các trẻ này cũng dễ nhầm với hen. Các triệu chứng đau ngực hoặc đau bụng, thường liên quan đến tổn thương màng phổi phía cơ hoành hoặc tiết dịch màng phổi.
Một số triệu chứng khác của bệnh viêm phổi ở trẻ em
Các triệu chứng phập phồng cánh mũi, thở rên, bú kém, kích thích và các bất thường khi khám phổi thay đổi phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân và độ nặng của bệnh.
Một số triệu chứng như bỏ bú, thở rên, tím trung tâm có thể là những gợi ý của tình trạng thiếu oxygen. Nhưng vì độ nhạy và đặc hiệu không cao nên khi có điều kiện cần phải đo độ bão hòa oxygen qua da (SpO2) cho bệnh nhi có biểu hiện suy hô hấp hoặc có vẻ ốm nặng.
3. Viêm phổi ở trẻ em có lây không?
Viêm phổi là bệnh đường hô hấp phổ biến, gây ra do viêm các phế nang trong phổi với tác nhân là vi khuẩn, virus, tụ cầu vàng và Mycoplasma... Thời điểm giao mùa là điều kiện lý tưởng cho các bệnh hô hấp phát triển trong đó có viêm phổi. Viêm phổi là căn bệnh có khả năng lây lan cao trong cộng đồng.
4. Chẩn đoán và phân loại
4.1. Viêm phổi rất nặng
Trẻ có ho hoặc khó thở cộng với ít nhất một trong các triệu chứng chính sau:
- Tím tái.
- Không uống được hoặc bỏ bú hoặc nôn ra tất cả mọi thứ.
- Co giật, lơ mơ hoặc hôn mê.
- Suy hô hấp nặng (ví dụ như: đầu gật gù theo nhịp thở và co kéo cơ hô hấp phụ).
- Thở nhanh, phập phồng cánh mũi, thở rên, co rút lồng ngực.
- Nghe phổi có thể thấy: Giảm tiếng rì rào phế nang, tiếng thổi ống, ran ẩm nhỏ hạt hoặc tiếng cọ màng phổi... Nếu có điều kiện thì nên chụp X-quang ngực.
4.2. Viêm phổi nặng
Trẻ ho hoặc khó thở và có ít nhất một trong các triệu chứng chính sau:
- Co rút lồng ngực.
- Phập phồng cánh mũi.
- Thở rên (ở trẻ dưới 2 tháng) và không có các dấu hiệu chính của viêm phổi rất nặng.
- Ngoài ra cũng có thể có thêm một số các triệu chứng khác đã mô tả ở phần viêm phổi rất nặng.
Chụp X-quang thường ít khi cho những thông tin để làm thay đổi quyết định điều trị. Do đó chỉ các trường hợp đặc biệt mới cần chụp Xquang.
4.3. Viêm phổi (không nặng)
Trẻ có ho hoặc khó thở và có thở nhanh:
- Trẻ dưới 2 tháng: Nhịp thở 60 lần/phút.
- Trẻ từ 2-12 tháng: Nhịp thở 50 lần/phút.
- Trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi: Nhịp thở 40 lần/phút.
Ngoài ra, không có một trong các triệu chứng chính của viêm phổi nặng hoặc rất nặng. Khi nghe phổi có thể thấy ran ẩm nhỏ hạt.
Nguyên nhân gây viêm phổi ở trẻ em có thể do virus, vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc nấm. Ảnh minh họa.
5. Điều trị viêm phổi ở trẻ em
5.1. Điều trị bằng kháng sinh
Chỉ có viêm phổi rất nặng và viêm phổi nặng là phải cho nhập viện điều trị bằng kháng sinh tiêm. Với viêm phổi không nặng thì có thể điều trị ngoại trú tại nhà bằng kháng sinh uống.
Viêm phổi do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Trong đó nhiều nhất là vi khuẩn, sau đó đến virus, ký sinh trùng, nấm và một số nguyên nhân hiếm gặp khác... Về lý thuyết nếu viêm phổi do virus đơn thuần thì kháng sinh sẽ không có tác dụng. Tuy vậy cho đến nay rất khó có thể biết được chính xác trường hợp nào là do virus đơn thuần hay do vi khuẩn, hoặc có sự kết hợp giữa virus với vi khuẩn kể cả việc dựa vào lâm sàng, X-quang và xét nghiệm khác.
Ngay cả khi cấy vi khuẩn âm tính cũng khó có thể loại trừ được trường hợp đó có phải là viêm phổi do vi khuẩn hay không. Phụ thuộc vào nhiều lý do như: bệnh nhân đã dùng kháng sinh trước đó hoặc bệnh phẩm lấy không đúng vị trí tổn thương.
Vì vậy trên thế giới hiện nay kể cả các nước phát triển, nơi có tỷ lệ viêm phổi do vi khuẩn thấp hơn so với các nước đang phát triển thì họ cũng có xu hướng dùng kháng sinh hàng loạt cho các trường hợp viêm phổi ở trẻ em.
5.2. Các điều trị hỗ trợ khác
- Dinh dưỡng: Cung cấp đủ nước cho bé thông qua sữa, nước uống trực tiếp, súp…
- Theo dõi tình trạng đi tiểu của bé để xem cung cấp nước có đủ không. Nếu bé tiểu ít, nước tiểu vàng có thể là do cung cấp thiếu nước.
- Vệ sinh mũi: Thường các trẻ viêm phổi cũng có viêm hô hấp trên kèm theo có thể vệ sinh mũi cho trẻ bằng nước muối sinh lý. Có thể dùng dạng xịt phun sương, lấy nhầy mũi bằng bấc sâu kèn.
- Hạ sốt: Nếu bé sốt trên 38 độ C mà có biểu hiện khó chịu, quấy thì có thể dùng thuốc hạ sốt thông thường paracetamol theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc khuyến cáo của nhà sản xuất.
- Giảm ho an toàn: Các loại siro ho thảo dược không có chống chỉ định, có thể giúp bé dễ chịu hơn.
- Làm ẩm không khí trong phòng hỗ trợ niêm mạc hô hấp, tránh nằm máy lạnh ở nhiệt độ quá thấp.
- Tái khám mỗi ngày hoặc mỗi 2 ngày theo chỉ định của bác sĩ.
6. Cách phòng ngừa viêm phổi ở trẻ em
Viêm phổi ở trẻ em có thể phòng ngừa bằng các biện pháp sau:
- Nâng cao sức đề kháng của trẻ thông qua việc cung cấp dinh dưỡng tốt. Cho ăn đúng và đủ theo hướng dẫn của chuyên gia dinh dưỡng. Thường xuyên theo dõi sự phát triển thể chất của trẻ để biết được tình trạng dinh dưỡng của con.
- Cải thiện môi trường sống: Nhà ở phải thoáng mát, thường xuyên vệ sinh, không tiếp xúc với người hút thuốc lá.
- Hạn chế tiếp xúc với người có biểu hiện bệnh hô hấp: ho, sốt…
- Vệ sinh mũi họng: khò họng nước muối sinh lí, nhỏ nước muối sinh lí sau khi đi bụi, mang khẩu trang tránh hít phải bụi đường.
- Điều trị bệnh nền nếu có: Suy dinh dưỡng, bệnh trào ngược dạ dày thực quản, bệnh tim bẩm sinh…
- Chích ngừa đầy đủ đặc biệt chú ý các mũi chích ngừa lao, sởi HiB, phế cầu, cúm.
Xem thêm bài viết được quan tâm: