1. Suy thận cấp là gì?
Tổn thương thận cấp là sự suy giảm nhanh chức năng thận trong vài ngày tới vài tuần, gây ra sự tích tụ các sản phẩm nitơ trong máu (Azotemia) có hoặc không có giảm số lượng nước tiểu. Nguyên nhân thường do tưới máu thận không đầy đủ do chấn thương nặng, bệnh tật hoặc phẫu thuật nhưng đôi khi do bệnh thận tiến triển nhanh, tổn thương tại thận.
Các triệu chứng có thể bao gồm chán ăn, buồn nôn, và nôn. Co giật và hôn mê có thể xảy ra nếu tình trạng này không được điều trị. Rối loạn nước, điện giải và thăng bằng axit-bazơ phát triển nhanh chóng.
Chẩn đoán dựa trên các xét nghiệm cận lâm sàng về chức năng thận, gồm cả creatinine huyết thanh. Các chỉ số nước tiểu, xét nghiệm cặn nước tiểu và thường có chẩn đoán hình ảnh và các xét nghiệm khác (đôi khi cần sinh thiết thận) cần thiết để xác định nguyên nhân. Điều trị nguyên nhân gây bệnh kết hợp với điều chỉnh cân bằng nước, điện giải và đôi lúc cần lọc máu.
Chẩn đoán xác định suy thận cấp căn cứ vào các yếu tố sau:
- Tìm được nguyên nhân có thể gây suy thận cấp (tuy nhiên đôi khi không tìm được nguyên nhân).
- Có tình trạng vô niệu hoặc thiểu niệu xảy ra ở mức độ cấp tính.
Tốc độ gia tăng creatinin huyết thanh > 42.5 μmol trong vòng 24 - 48 giờ so với creatinin nền, nếu creatinin nền của người bệnh < 221 μmol/l. Hoặc: Tốc độ gia tăng creatinin huyết thanh > 20% trong vòng 24 - 48 giờ so với creatinin nền, nếu creatinin nền của người bệnh > 221 μmol/l.
Mức lọc cầu thận giảm < 60ml/ph, xảy ra sau tình trạng vô niệu.
- Có thể có toan máu chuyển hoá.
- Bệnh diễn biến qua 4 giai đoạn.
2. Nguyên nhân suy thận cấp
Nguyên nhân của tổn thương thận cấp có thể được phân loại như sau:
- Trước thận.
- Tại thận.
- Sau thận.
- Suy thận cấp trước thận là do sự tưới máu thận không đầy đủ. Các nguyên nhân chính là:
- Giảm thể tích dịch ngoại bào (ví dụ: do ăn uống không đủ dịch, bệnh tiêu chảy, nhiễm khuẩn huyết, chấn thương nặng, phẫu thuật).
- Bệnh tim mạch (ví dụ: suy tim, sốc tim).
- Bệnh gan mất bù.
Các nguyên nhân trước thận thường không gây tổn thương thận kéo dài (và do đó có khả năng hồi phục được) trừ khi giảm tưới máu thận nặng và hoặc kéo dài. Giảm tưới máu của thận chức năng còn lại dẫn đến việc tăng hấp thu natri và nước, kết quả gây thiểu niệu (nước tiểu < 500 mL/ngày) với áp lực thẩm thấu niệu cao và natri niệu thấp.
- Các nguyên nhân tại thận của suy thận cấp bao gồm bệnh tại thận hoặc tổn thương tại thận.
Các bệnh lý có thể liên quan đến các mạch máu, cầu thận, ống thận hoặc kẽ thận. Nguyên nhân phổ biến nhất là:
- Viêm cầu thận cấp
- Các chất độc với thận (bao gồm cả thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn)
- Bệnh cầu thận làm giảm mức lọc cầu thận (GFR) và tăng tính thấm của mao mạch cầu thận đối với protein và hồng cầu. Tình trạng này có thể là viêm (viêm cầu thận) hoặc là kết quả của tổn thương mạch máu do thiếu máu cục bộ hoặc viêm mạch.
- Ống thận cũng có thể bị tổn thương do thiếu máu và có thể bị tắc nghẽn bởi các mảnh tế bào, protein hoặc tinh thể lắng đọng và phù nề tế bào hoặc khoảng kẽ.
- Viêm thận kẽ thường liên quan đến một hiện tượng miễn dịch hoặc dị ứng. Các cơ chế gây tổn thương ống thận này rất phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau, khiến cho thuật ngữ hoại tử ống thận cấp phổ biến trước đây trở thành một mô tả không đầy đủ.
- Suy thận cấp sau thận (bệnh thận tắc nghẽn) do các nguyên nhân gây tắc nghẽn đường bài xuất và hệ thống ống góp của hệ tiết niệu.
Sự tắc nghẽn cũng có thể xảy ra ở mức độ vi thể bên trong các ống thận khi các tinh thể hoặc các chất chứa protein kết tủa.
Chất siêu lọc bị nghẽn lại trong các ống thận hoặc ở xa hơn, làm tăng áp lực trong khoang niệu của cầu thận, làm giảm GFR. Sự tắc nghẽn cũng ảnh hưởng đến lưu lượng máu qua thận, ban đầu làm tăng lưu lượng và áp suất trong mao mạch cầu thận do giảm sức cản tiểu động mạch đến.
Tuy nhiên, trong vòng 3 đến 4 giờ, lưu lượng máu của thận giảm, và đến 24 giờ, nó đã giảm xuống < 50% giá trị bình thường do tăng sức cản của mạch máu thận. Sức cản mạch thận có thể mất đến một tuần để trở lại bình thường sau khi giảm sự tắc nghẽn trong vòng 24 giờ.- Để gây ra suy thận cấp có ý nghĩa, sự tắc nghẽn phải xảy ra ở cả hai niệu quản trừ khi bệnh nhân chỉ có một thận chức năng duy nhất.
- Sự tắc nghẽn đường ra bàng quang do phì đại tiền liệt tuyến có lẽ là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bí tiểu đột ngột và thường gây bí tiểu hoàn toàn ở nam giới.
3. Triệu chứng suy thận cấp
Ban đầu, tăng cân và phù ngoại vi có thể là những dấu hiệu duy nhất. Thông thường, các triệu chứng chủ yếu là các triệu chứng của bệnh đang mắc hoặc các triệu chứng của các biến chứng phẫu thuật gây suy giảm chức năng thận.
Các triệu chứng của tăng ure máu có thể xuất hiện sau đó do lắng đọng các sản phẩm nitơ. Các triệu chứng bao gồm:
- Chán ăn
- Buồn nôn
- Nôn
- Yếu
- Rung giật cơ
- Động kinh
- Lú lẫn
- Hôn mê
- Run vỗ cánh và tăng phản xạ có thể gặp khi thăm khám. Đau ngực (thường nặng hơn khi hít vào hoặc khi nằm), tiếng cọ màng ngoài tim và có thể có dấu hiệu chèn ép tim nếu xuất hiện viêm màng ngoài màng do tăng ure máu. Sự ứ đọng dịch ở phổi có thể gây khó thở và nghe phổi có tiếng ran nổ.
- Các dấu hiệu khác phụ thuộc vào nguyên nhân. Nước tiểu có thể có màu coca trong bệnh cầu thận hoặc myoglobin niệu. Cầu bàng quang xuất hiện khi có tắc nghẽn đường ra bàng quang. Khi thận to lên cấp tính có thể cảm nhận thấy góc sườn cột sống căng cứng.
- Thay đổi số lượng nước tiểu: Số lượng nước tiểu trong suy thận cấp không có sự phân biệt rõ ràng giữa nguyên nhân trước thận, tại thận và sau thận.
Trong tổn thương ống thận cấp, số lượng nước tiểu có thể có 3 giai đoạn:
- Giai đoạn khởi phát thường có số lượng nước tiểu bình thường và thời gian thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố gây bệnh (ví dụ như lượng độc tố ăn vào, thời gian và mức độ hạ huyết áp).
- Giai đoạn thiểu niệu số lượng nước tiểu thường từ 50 đến 500 mL/ngày. Thời gian của giai đoạn thiểu niệu thay đổi phụ thuộc vào nguyên nhân của AKI và thời gian điều trị. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không có thiểu niệu. Các bệnh nhân thể bảo tồn nước tiểu có nguy cơ tử vong và gánh nặng bệnh tật thấp hơn và ít nguy cơ phải lọc máu hơn.
- Trong giai đoạn sau thiểu niệu, lượng nước tiểu dần dần trở lại bình thường, nhưng nồng độ creatinine và urê huyết thanh có thể không giảm trong vài ngày nữa. Rối loạn chức năng ống thận có thể kéo dài vài ngày hoặc vài tuần và có biểu hiện là mất natri, đa niệu (có thể ồ ạt) không đáp ứng với vasopressin, hoặc nhiễm toan chuyển hóa do tăng clo huyết.
4. Suy thận cấp có lây nhiễm không?
Suy thận cấp có nguyên nhân cụ thể từng bệnh nhân và không có yếu tố lây nhiễm nên bệnh Suy thận cấp không lây nhiễm từ người này sang người khác.
5. Cách phòng bệnh suy thận cấp
- Ngừng sử dụng các thuốc gây độc cho thận và điều chỉnh tất cả các loại thuốc được đào thải qua thận (ví dụ: digoxin, một số loại kháng sinh); nồng độ huyết thanh rất hữu ích.
- Tổn thương thận cấp (AKI) có thể được phòng ngừa bằng cách duy trì sự cân bằng dịch, thể tích máu và huyết áp ở bệnh nhân bị chấn thương, bỏng, hoặc xuất huyết trầm trọng và trong những ca phẫu thuật lớn. Truyền nước muối đẳng trương và máu có thể có ích.
- Nên giảm thiểu việc sử dụng thuốc cản quang chứa iod, đặc biệt ở những nhóm có nguy cơ cao (ví dụ: bệnh nhân cao tuổi và những người bị suy thận từ trước, suy giảm thể tích, tiểu đường hoặc suy tim) đối với bệnh thận do thuốc cản quang. Nếu cần thiết phải sử dụng thuốc cản quang, hạn chế nguy cơ bằng cách giảm thiểu lượng thuốc cản quang sử dụng, sử dụng các thuốc cản quang dạng không ion hóa và áp suất thẩm thấu thấp hoặc áp suất thẩm thấu đẳng trương.
Tránh sử dụng NSAID và truyền tĩnh mạch dung dịch muối đẳng trương với tốc độ 1 mL/kg/h trong 12 giờ trước thăm dò sử dụng thuốc cản quang. Truyền natri bicarbonate đẳng trương trước và sau khi tiêm thuốc cản quang cũng đã được sử dụng thành công thay cho nước muối sinh lý, đặc biệt ở những bệnh nhân đồng thời nhiễm toan chuyển hóa. - Trước khi liệu pháp ly giải tế bào được chỉ định ở một số bệnh nhân ung thư (ví dụ: u lympho, lơ xê mi), nên xem xét điều trị bằng rasburicase hoặc allopurinol cùng với làm tăng lưu lượng nước tiểu bằng cách tăng lượng dịch uống hoặc dịch truyền tĩnh mạch để giảm lượng tinh thể urat niệu. Kiềm hóa nước tiểu (bằng cách cho uống hoặc truyền tĩnh mạch natri bicarbonate hoặc acetazolamide) đã được đề xuất bởi một số tác giả nhưng hiện còn đang gây tranh cãi bởi vì nó có thể gây lắng đọng canxi phosphat và tinh thể trong nước tiểu và làm trầm trọng hơn tổn thương thận cấp.
6. Cách điều trị bệnh suy thận cấp
- Nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân gây suy thận cấp nếu có (tuỳ từng nhóm nguyên nhân mà có biện pháp điều trị phù hợp).
- Điều chỉnh các rối loạn tuần hoàn, trong đó quan trọng nhất là phục hồi lại lượng máu và dịch, duy trì huyết áp tâm thu 100 - 120mmHg.
- Phục hồi lại dòng nước tiểu.
- Điều chỉnh các rối loạn nội môi do suy thận cấp gây ra.
- Điều trị triệu chứng phù hợp với từng giai đoạn của bệnh.
- Chỉ định lọc máu ngoài thận khi cần thiết.
- Chú ý chế độ dinh dưỡng, cân bằng nước điện giải phù hợp với từng giai đoạn của bệnh.