Tổn thương thận cấp tính (AKI) là một tình trạng bệnh lý nghiêm trọng và đe dọa tính mạng, đặc trưng bởi một sự giảm sút chức năng thận nhanh chóng xảy ra trong một vài giờ hoặc vài ngày. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng này là do thuốc điều trị...
Trong xử trí AKI, một khâu vô cùng quan trọng là tập trung vào việc xác định các nguy cơ cao liên quan và nguyên nhân của AKI nhằm đưa ra các biện pháp điều trị chăm sóc và phòng ngừa. Đặc biệt chú ý đến nhóm bệnh nhân lớn tuổi, do thống kê có khoảng 70% bệnh nhân AKI nằm trong độ tuổi 70 trở đi.
Người lớn tuổi dễ mắc các bệnh thận và AKI do giảm lưu lượng máu thận, tỷ lệ mắc phải tăng khoảng 1% mỗi năm sau tuổi 30. Những bệnh nhân này cũng thường có nhiều yếu tố nguy cơ đối với AKI, chẳng hạn như mắc nhiều bệnh đan xen (ví dụ, bệnh tim mạch, đái tháo đường, suy tim), mất nước, tụt huyết áp, tăng tiếp xúc với các can thiệp chẩn đoán có sử dụng thuốc cản quang và việc sử dụng nhiều thuốc gây độc cho thận.
Dùng thuốc không đúng có thể gây tổn thương thận.
Thống kê cho thấy, thuốc liên quan đến 20% nguyên nhân gây AKI trong cộng đồng và bệnh viện, với tỷ lệ mắc cao ở người lớn tuổi. Việc xác định các loại thuốc liên quan đến suy thận do thuốc là rất quan trọng nhằm đưa ra quyết định ngưng thuốc, hay sử dụng với liều thấp hơn hoặc chọn một thay thế an toàn hơn. Các loại thuốc gây tổn thương thận cấp tính thường gặp như sau:
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID)
Ước tính có khoảng 5% số bệnh nhân dùng NSAID đã xác định có độc tính trên thận mỗi năm. Kể từ khi một số thuốc NSAID được dùng phổ biến rộng rãi trên các quầy thuốc và kê toa, các bệnh nhân và các nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe dễ chủ quan bỏ qua các nguy cơ liên quan với các loại thuốc này. Tuy nhiên, tất cả các NSAID, bao gồm cả các chất ức chế COX-2 như celecoxib có khả năng gây AKI bằng cách giảm lưu lượng máu thận và thông qua cơ chế tổn thương trực tiếp trên thận. Bệnh nhân có nguy cơ cao của AKI cần được tư vấn về nguy cơ của việc sử dụng NSAID và hạn chế tối đa biến chứng AKI do NSAID.
Sự khởi đầu của AKI thường xảy ra trong vòng 3-7 ngày sau khi bắt đầu điều trị NSAID và nguy cơ tổn thương tăng lên đáng kể khi NSAID được dùng kết hợp với các thuốc gây độc thận khác. Các bệnh nhân có nguy cơ cao bị bệnh thận nên tránh sử dụng NSAID nếu có thể và nếu cần thiết nên hạn chế sử dụng không quá 2-3 ngày. Có thể dùng thay thế acetaminophen để giảm đau nhẹ và opioid cho đau vừa phải và nặng.
Thuốc trị tăng huyết áp
Thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc chẹn thụ thể angiotensin.
Khuyến cáo hiện nay khuyên sử dụng thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE) hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) ở những bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính và suy tim tâm thu, vì lợi ích đã được chứng minh của chúng trong việc cải thiện tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Mặc dù có những lợi ích đã được chứng minh, nhưng thuốc ức chế ACE và ARB thường liên quan đến suy thận do thuốc, vì tác dụng của chúng trên áp lực dòng chảy các cầu thận dẫn đến giảm đáng kể tốc độ lọc cầu thận.
Nên dùng liều thấp ban đầu, tăng liều chậm và tăng giám sát chức năng thận ở bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế ACE và ARB. Độ thanh thải creatinin có thể tăng lên đến 30% được dự kiến trong 2-5 ngày điều trị đầu tiên. Khuyến cáo theo dõi định kỳ chức năng thận khi sử dụng các thuốc ức chế ACE và ARB điều trị tăng huyết áp.
Cần lưu ý không nên sử dụng NSAID kết hợp với các chất ức chế ACE hoặc ARB sẽ làm tăng nguy cơ suy thận do thuốc.
Thuốc lợi tiểu
Sử dụng thuốc lợi tiểu có thể dẫn đến mất nước, dẫn đến lượng máu thấp làm tăng nguy cơ hạ huyết áp và khả năng bị suy giảm chức năng thận. Giám sát và xác định tình trạng mất nước cần đặt ra khi đang sử dụng thuốc lợi tiểu.
Cần thận trọng khi kết hợp các loại thuốc nêu trên
Có một sự gia tăng đáng kể tác hại trên thận trong việc sử dụng kết hợp các thuốc NSAID, thuốc ức chế ACE hoặc ARB và thuốc lợi tiểu ở những người có nguy cơ cao. Khoảng 10% bệnh nhân suy thận tử vong liên quan đến sự kết hợp này.
Tóm lại, những nguy cơ của tổn thương thận cấp tính (AKI) tăng lên khi sử dụng và kết hợp các loại thuốc nêu trên. Do đó, bệnh nhân phải đọc kỹ trên nhãn thuốc để nắm rõ các thành phần kết hợp bên trong và tranh thủ sự tư vấn của bác sĩ nhằm tránh các biến chứng nguy hiểm cho thận.