1. Nguyên nhân dại
Dại hay còn gọi là bệnh dại là bệnh nhiễm virus cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương từ động vật lây sang người bởi chất tiết, thông thường là nước bọt bị nhiễm virus dại.
Hầu hết các trường hợp phơi nhiễm với bệnh dại đều qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại, đôi khi có thể bị nhiễm qua đường tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc ghép tổ chức mới bị nhiễm virus dại. Khi đã lên cơn dại, kể cả động vật và người đều dẫn đến tử vong.
2. Dấu hiệu dại
Giai đoạn của bệnh dại được chia theo các mốc như sau:
- Giai đoạn tiền triệu chứng: thường kéo dài từ 1- 4 ngày, biểu hiện cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vết thương nơi virus xâm nhập.

BSCKI Trịnh Thị Hằng - Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện 19-8
- Giai đoạn viêm não thường biểu hiện mất ngủ, tăng cảm giác kích thích như: sợ ánh sáng, tiếng động và gió nhẹ. Ngoài ra, còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp, đôi khi có biểu hiện xuất tinh tự nhiên.
- Bệnh tiến triển theo hai thể: thể liệt kiểu hướng thượng (hội chứng Landly) và thể cuồng.
- Bệnh thường kéo dài từ 2- 6 ngày, đôi khi lâu hơn và chết do liệt cơ hô hấp.
Các bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh dựa vào các triệu chứng lâm sàng. Đặc biệt là các chứng sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng với các yếu tố dịch tễ học có liên quan.
Bên cạnh đó làm thêm các chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ mô não hoặc phân lập virus trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã làm đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy bệnh nhân hoặc chẩn đoán huyết thanh bằng phản ứng trung hoà trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Ngày nay, với kỹ thuật mới có thể phát hiện được ARN của virus dại bằng phản ứng PCR hoặc phản ứng RT-PCR.

Khi bị chó dại cắn cần tiêm phòng vaccine theo hướng dấn của nhân viên y tế.
3. Bệnh dại có lây không
Bệnh dại được lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh (chó dại cắn, mèo cào... ) bài tiết ra ngoài và theo vết cắn, vết liếm, vết xước trên da bị rách (hoặc qua màng niêm mạc còn nguyên vẹn) vào cơ thể, từ đó theo dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương. Khi đến thần kinh trung ương, virus sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Tại thời điểm này, thần kinh chưa bị tổn thương đáng kể vì thế nhìn bề ngoài con vật vẫn bình thường nhưng nước bọt đã có virus dại. Sau đó, virus dại hủy hoại dần các tế bào thần kinh làm xuất hiện các triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh dại.
Bệnh dại có thể lây truyền thông qua vết cào, xước của mèo do mèo có thói quen hay liếm móng vuốt và tuyến nước bọt có thể lây lan bệnh dại từ vật nuôi sang người cũng như con vật khác.
4. Phòng ngừa bệnh dại
Bệnh dại chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, tuy nhiên hoàn toàn có thể phòng tránh được. Biện pháp tốt nhất để phòng ngừa bệnh dại là tiêm phòng cho cả người và động vật. Ngay sau khi bị chó, mèo cắn hoặc cào, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được tư vấn tiêm phòng. Thời điểm tiêm tốt nhất là trong vòng 6h đầu tiên.
Ngoài ra còn có phương pháp phòng ngừa tiêm vaccine dự phòng bệnh dại cho những người có nguy cơ cao phơi nhiễm với virus dại như cán bộ thú y, nhân viên phòng thí nghiệm làm việc với virus dại, người làm nghề giết mổ chó, người dân và những người đi du lịch đến các khu vực lưu hành bệnh dại.

Tiêm phòng dại cho vật nuôi là cách để phòng ngừa bệnh dại.
Bệnh dại là bệnh lây từ động vật (chó, mèo…) sang người, để nâng cao hiệu quả phòng bệnh cần có sự kết hợp của các liên ngành một cách thường xuyên, chặt chẽ. CDC (Trung tâm kiểm soát bệnh tật) các tỉnh cần phối hợp với Chi cục Thú y tại địa phương để vận động người dân đi tiêm phòng dại cho vật nuôi. Phối hợp giữa các ngành các cấp để xử lý ổ dịch dại trên người, động vật tại địa bàn đồng thời giám sát các ổ dịch cũ trước đó. Địa phương cần có biện pháp để giám sát có hiệu quả đàn vật nuôi chó, mèo và xử lý những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh dại theo quy định, có biện pháp xử lý đối với các trường hợp thả rông chó, mèo.
5. Điều trị bệnh dại
Về điều trị bệnh dại, thông thường sẽ là điều trị dự phòng bởi tỷ lệ tử vong do bệnh dại gần như 100% khi xuất hiện các triệu chứng. Bệnh dại trên người có thể phòng và điều trị dự phòng bằng vắc xin và huyết thanh kháng dại. Khi bị chó, mèo cắn cào, người bệnh cần thực hiện nghiêm những nội dung sau:
- Xử lý vết thương: Rửa ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc, sau đó rửa bằng nước muối, bôi chất sát trùng như cồn, cồn iốt để làm giảm lượng virus tại vết cắn. Chỉ khâu vết thương trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày. Tiêm vắc xin uốn ván và điều trị chống nhiễm khuẩn nếu cần.
- Bệnh nhân sẽ được điều trị theo các trường hợp sau:
- Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho người chưa tiêm phòng dại
- Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho người đã tiêm phòng dại