Hôn người dưới 16 tuổi sẽ bị kết tội dâm ô trẻ em
Theo Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì tình tiết "dâm ô" quy định tại khoản 1 Điều 146 của BLHS được mô tả như sau:
Dâm ô là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục.
Nghị quyết mới quy định rõ các trường hợp bị xác định là dâm ô với người dưới 16 tuổi
Các hành vi sau đây đều bị coi là dâm ô:
- Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;
- Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).
Cũng theo Nghị quyết, khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án không được yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội; Không đối chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa; Không buộc bị hại phải tham gia phiên tòa…
Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 05/11/2019.
Người lao động được vay đến 100 triệu đồng
Ngày 8/11/2019, Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa Nghị định 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm sẽ chính thức có hiệu lực.
Nghị định mới đã tăng gấp đôi hạn mức cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh và người lao động. Cụ thể:
- Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay tối đa là 02 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 01 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm.
- Đối với người lao động, mức vay tối đa là 100 triệu đồng.
Đồng thời, Nghị định này cũng nới thời hạn vay vốn lên đến 120 tháng, trong khi trước đây chỉ là 60 tháng.
Chỉ với những khoản vay từ 100 triệu đồng trở lên, các cơ sở sản xuất, kinh doanh mới phải có tài sản đảm bảo tiền vay (trước đây là 50 triệu đồng).
Quy định mới về hóa đơn điện tử
Một trong những văn bản quan trọng nhất sẽ có hiệu lực trong tháng 11/2019 chính là Thông tư 68/2019/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn về hóa đơn điện tử. Thông tư 68 có hiệu lực từ ngày 14/11/2019.
Vấn đề được doanh nghiệp và kế toán quan tâm hàng đầu tại Thông tư này chính là quy định về thời điểm áp dụng hóa đơn điện tử và hiệu lực thi hành của Thông tư.
Theo Thông tư, từ ngày 01/11/2020, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh phải đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử.
Thông tư cũng quy định cụ thể về các nội dung có trên hóa đơn điện tử nhưng trong một số trường hợp nhất định, trên hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có đầy đủ các nội dung.
Tại Điều 3 Thông tư 68/2019/TT-BTC, nội dung hóa đơn điện tử có một số thay đổi:
– Sửa đổi về ký hiệu mẫu và ký hiệu hóa đơn.
– Thời điểm lập Hóa đơn điện tử được hướng dẫn xác định cụ thể hơn nhưng vẫn phù hợp với quy định từng trường hợp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ tại Điều 7, Nghị định 119/2018/NĐ-CP và Điều 4 của Thông tư 68/2019/TT-BTC.
– Thông tư cũng quy định rõ ràng về việc hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có chữ ký của người mua trong từng trường hợp và lĩnh vực cụ thể.
Thông tư cũng cho phép các doanh nghiệp, tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh có thể tạo thêm thông tin về biểu trưng hay logo để thể hiện nhãn hiệu, thương hiệu hay hình ảnh đại diện của người bán trên hóa đơn điện tử.
Phải giữ bí mật thông tin khách hàng khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
Có hiệu lực từ ngày 1/11, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ có nhiều nội dung mới, trong đó đã bổ sung khái niệm về Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Đây là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, do doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác thực hiện nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: Tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.
Luật này cũng quy định cá nhân chỉ được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm; Còn doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức khác có tư cách pháp nhân được quyền cung cấp tất cả dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.
Việc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm của cá nhân, tổ chức phải giữ bí mật thông tin khách hàng, sử dụng thông tin khách hàng đúng mục đích và không được cung cấp cho bên thứ ba mà không có sự chấp thuận của khách hàng, trừ trường hợp cung cấp theo quy định của pháp luật...