Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vùng đất trù phú, giữ vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu nông sản – đang đối mặt với sức ép ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu. Xâm nhập mặn, hạn hán, sụt lún, sạt lở và sự suy giảm dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công đang tác động trực tiếp đến mô hình sản xuất và đời sống của hàng chục triệu người dân.
Trước những biến động này, yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi cách tiếp cận chủ động dựa trên khoa học và công nghệ (KH&CN). Đây là định hướng xuyên suốt trong nhiều chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đối với vùng ĐBSCL thời gian qua.
Hành lang chính sách cho phát triển bền vững
Từ Quyết định 158/2008/QĐ-TTg về thích ứng với biến đổi khí hậu đến Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL, Nhà nước đã đặt nền tảng quan trọng cho chiến lược phát triển vùng trong bối cảnh khí hậu biến đổi nhanh và khó lường. Tiếp đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 13-NQ/TW và Chính phủ ban hành Nghị quyết 78/NQ-CP, xác định rõ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội cho ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Điểm chung của các văn bản này là nhấn mạnh vai trò trung tâm của KH&CN trong bảo đảm an ninh nguồn nước, phục hồi hệ sinh thái, tăng khả năng thích ứng và thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Ngày 29/12/2023, Bộ KH&CN tiếp tục cụ thể hóa định hướng này với Chương trình KH&CN cấp quốc gia KC.15/21-30 "Khoa học và công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL". Chương trình tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm của vùng trước bối cảnh khí hậu diễn biến phức tạp.
Chương trình hướng đến việc cung cấp luận cứ khoa học, giải pháp kỹ thuật và mô hình công nghệ nhằm tăng cường khả năng thích ứng của ĐBSCL trước biến đổi khí hậu và các tác động từ thượng nguồn sông Mê Công. Các mục tiêu chính bao gồm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững gắn với nông nghiệp thích ứng, công nghiệp carbon thấp, kinh tế tuần hoàn; phát triển xã hội hài hòa, văn minh sinh thái; sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ đa dạng sinh học.
Đáng chú ý, chương trình đặt ra các chỉ tiêu cụ thể: tối thiểu 80% kết quả nghiên cứu được ứng dụng thực tế; 50% nhiệm vụ có sự tham gia của doanh nghiệp hoặc địa phương; 30% nhiệm vụ tạo ra sản phẩm sở hữu trí tuệ. Các tiêu chí này giúp bảo đảm nghiên cứu sát thực tiễn và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Quản lý nguồn nước, chuyển dịch sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu
ĐBSCL đang chịu tác động kép: nhu cầu sản xuất lớn và sự nhạy cảm trước biến đổi khí hậu. Lưu lượng nước sông Mê Công giảm khiến xâm nhập mặn đến sớm và sâu hơn, nhiều tuyến kênh rạch nhiễm mặn kéo dài, gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt.
Theo các nhà khoa học, vùng cần một chiến lược thích ứng tổng thể và lâu dài, thay vì các biện pháp xử lý riêng lẻ. Các giải pháp được khuyến nghị gồm hệ thống cảnh báo sụt lún thời gian thực, công nghệ ngăn mặn – trữ ngọt thông minh, mô hình nông – thủy sản ứng dụng công nghệ cao, quy hoạch đô thị xanh, phát triển công nghiệp carbon thấp và thúc đẩy kinh tế số trong chuỗi sản xuất – tiêu thụ nông sản.
Kết quả nghiên cứu từ Chương trình KC.15/21-30 sẽ hỗ trợ các địa phương quản lý hiệu quả nguồn nước, chuyển đổi mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện mới, giảm thiểu rủi ro thiên tai và nâng cao giá trị kinh tế. Bộ KH&CN là cơ quan chủ trì triển khai, tổ chức đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu thực tiễn và kết nối doanh nghiệp, viện nghiên cứu, địa phương để thúc đẩy ứng dụng.
Khi chương trình vận hành hiệu quả, vùng ĐBSCL sẽ có được hệ thống giải pháp đồng bộ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 120 và Nghị quyết 13. Vùng chỉ có thể phát triển bền vững khi KH&CN và đổi mới sáng tạo được đặt làm nền tảng của tăng trưởng.
Với sự đồng hành của cộng đồng khoa học, doanh nghiệp, chính quyền và người dân, ĐBSCL có thể biến thách thức khí hậu thành động lực đổi mới, tiếp tục phát huy vai trò là vùng kinh tế trọng điểm, sinh thái, văn minh và hội nhập quốc tế.
