Theo nghĩa đen "đái tháo nhạt" là bài tiết ra nhiều nước tiểu không có vị gì cả. Y học dùng thuật ngữ này để chỉ một bệnh có đặc điểm là uống nhiều và đái nhiều. Nó khác đái tháo đường ở chỗ không có tăng đường huyết và không có đường trong nước tiểu.
Mạch môn.
Đái tháo nhạt có thể do tuyến yên bị khối u, do hậu quả của chấn thương sọ não, do di căn, thâm nhiễm, nhưng không ít trường hợp đái tháo nhạt không có nguyên nhân được xếp vào nhóm đái tháo nhạt vô căn.
Bệnh nhân thường đái nhiều từ 4 lít tới 15-20 lít nước tiểu một ngày, rất khát.
Đái cả ngày, cả đêm làm bệnh nhân mất ngủ. Nước tiểu nhạt màu, không có đường, không có protein, tỷ trọng rất thấp, uống ít chỉ làm bệnh nhân khó chịu, không giảm đái, tỷ trọng nước tiểu không tăng.
Do đái nhiều bệnh nhân rất khát và uống rất nhiều. Lượng uống vào thường phải tương đương lượng đái ra.
Theo y học cổ truyền, chứng đái tháo nhạt có liên quan đến phế, tỳ, vị và thận mà có thể hiểu cơ chế sinh bệnh như sau:
Phế chủ khí, thông điều thủy đạo, trường hợp phế âm không đủ, phế cơ mất chức năng thăng giáng, thủy dịch trong cơ thể không được phân bổ đều khắp cơ thể mà xuống trực tiếp bàng quang dẫn đến tiểu nhiều lần và lượng nhiều. Tỳ chủ vận hóa, tỳ khí kém chức năng vận hóa thủy dịch suy giảm, nước không giữ được trong cơ thể mà thoát xuống bàng quang ra ngoài. Mặt khác tỳ khí kém cũng dẫn đến phế khí suy mà không thông điều được thủy đạo. Thận chủ thủy, thận khí suy thì chức năng khí hóa rối loạn, bàng quang không được chế ước nên tiểu nhiều. Sách Cảnh nhạc toàn thư có ghi: "Dương không hóa khí thì tân dịch không phân bổ trong cơ thể, thủy không có hỏa thì chỉ có giáng mà không thăng nên chảy trực tiếp vào bàng quang".
Nguyên tắc chung điều trị bệnh đái tháo nhạt là âm hư nhưng trường hợp mắc bệnh lâu ngày có thể dẫn đến dương hư. Trên lâm sàng thường gặp các thể bệnh và biện chứng luận trị như sau:
Phế vị âm hư: Khát nhiều, thích uống nước lạnh, mồm lưỡi khô, tiểu nhiều lần, lượng nước tiểu nhiều, lưỡi đỏ rêu vàng.
Phép trị: Thanh dưỡng phế vị
Bài thuốc: Nhân sâm 8g, sinh địa 12g, thiên hoa phấn 12g, ngọc trúc 12g, thiên môn 12g, mạch môn 12g, địa cốt bì 12g, đan sâm 12g, đan bì 12g, thạch cao (gói) 40-60g sắc trước, tri mẫu 10g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
Thận âm hư: Triệu chứng chủ yếu là khát uống nhiều, tiểu nhiều và nhiều lần, lòng bàn chân tay nóng, váng đầu mệt mỏi, đau lưng mỏi gối, lưỡi đỏ.
Phép trị: Tư thận dưỡng âm, thanh nhiệt sinh tân.
Bài thuốc: Sinh địa 20g, sơn dược 20g, đan bì 12g, bạch linh 12g, mạch đông 12g, thiên môn đông 12g, thiên hoa phấn 12g, huyền sâm 12g, tang phiêu tiêu 10g, sơn thù nhục 12g, ngũ vị tử 4g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
Thận dương hư: Bệnh lâu ngày, âm hư dẫn đến dương hư, thường người mệt mỏi, sợ lạnh, uống nhiều, tiểu nhiều, sắc mặt sạm khô kém tươi nhuận, đau lưng, váng đầu chóng mặt, lưỡi nhợt rêu dày trắng.
Phép trị: Ôn bổ thận dương.
Bài thuốc: Sinh địa 34g, thục địa 24g, hoài sơn 12g, nữ trinh tử 12g, đan bì 12g, bạch linh 10g, trạch tả 10g, phụ tử 6g, nhục quế 6g, đỗ trọng 15g, xương bồ 3g, tang phiêu tiêu 14g. Sắc uống ngày một thang.
Bài thuốc kinh nghiệm: Hà thủ ô 120g, mè đen 120g, táo đỏ 120g, sơn dược 60g, táo đen 60g, gà non một con (lông đen, bỏ lòng, ruột) làm sạch bỏ chung với thuốc vào nồi đất cho đủ nước chưng nhỏ lửa trong 8-12 giờ, chia nhiều lần uống nước thuốc và ăn thịt gà; mỗi tuần một con.
Lương y Vũ Quốc Trung