Chính ông Nguyễn Xuân An cũng không ngờ khi mình ở tuổi "thất thập cổ lai hi" lại trở thành nhà sáng chế, hơn nữa, không phải sáng chế trong lĩnh vực địa chất mà ông đã có trên 40 năm liên tục cống hiến, lại thuộc một lĩnh vực khác xa là sông biển.
Sáng chế bắt nguồn từ nỗi đau
Mọi việc bắt đầu từ cơn bão Chanchu. Một ngày giữa tháng 5/2006, như lệ thường sau bữa cơm chiều, ông bà ngồi trước máy thu hình xem bản tin thời sự. Cơn bão hình thành quá nhanh ngoài biển Đông, sức gió giật đến cấp 12, cấp 13 vừa đổ bộ vào miền Trung, trong đó có Bình Định quê ông, cướp đi sinh mạng của 246 ngư dân, mà chỉ vớt được xác của 20 người, còn lại đều làm mồi cho cá giữa biển khơi. Trước đó, chỉ tính riêng 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Đà Nẵng đã có gần 70 người, hầu hết đều là thanh niên câu mực bằng thuyền thúng đã gặp bão, mất tích. Tổn thất quá lớn! Sự việc thường diễn ra trong mùa mưa bão ở nước ta là quá đau lòng! Lúc đó trong đầu ông bỗng hiện lên hình ảnh chiếc thuyền thúng tròn nhỏ nhoi, mong manh câu mực giữa biển, mà thuở bé đã có đôi lần ông được theo người lớn ra khơi. Một ý tưởng chợt nay ra trong đầu, ông quay sang bà ngồi bên, hỏi: "Này mình, có thể biến chiếc thuyền thúng kia trở thành chiếc phao cứu sinh mỗi khi gặp bão không nhỉ?". Sau giây lát suy nghĩ, bà gật đầu tán thưởng. Ông liền bỏ xem tivi lên gác, ngồi ngay vào bàn làm việc. Bà thấy ông "sốt sột" như vậy, không gàn, bao nhiêu năm sống với ông, bà hiểu tính chồng, nghĩ được điều gì cảm thấy hay là thực hiện liền và thực hiện cho bằng xong. Đêm đó ông thức trắng, tính toán, hí hoáy hết phác thảo này đến phác thảo khác. Sáng ra, ông "khoe" với bà bản vẽ mẫu chiếc thuyền thúng thành phao cứu sinh và công trình "Thuyền thúng phao an toàn cho người đi biển" của người kỹ sư địa chất già ấy ra đời nhanh, bất ngờ như vậy! Điểm mấu chốt trong việc cải hoán này, là ghép thêm một khối vật liệu nhẹ bọt xốp (styro foam) hình vành khuyên vào lòng thuyền và đục một lỗ ở đáy có nút đóng mở được. Nếu là thuyền bình thường khi gặp sóng lớn sẽ bị lật chìm, còn với thuyền cải tiến, người bị nạn mở van nước tràn vào cân bằng trong ngoài, đồng thời khối nhựa xốp trở thành phao làm cho thuyền không thể bị chìm. Thuyền còn có hệ thống dây chằng xung quanh để người bị nạn dễ bám; giữa họ với thuyền lắp thêm một đai dây an toàn để khi sóng to gió lớn không đánh bật người lìa khỏi phao, như thế khả năng xấu nhất khi họ bị tử vong cũng không trôi mất xác. Gần 3 năm sau khi phác thảo đầu tiên ra đời như thế, ngày 19/1/2009, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học & công nghệ đã cấp bằng độc quyền sáng chế số 754, cho công trình "thuyền - phao" của ông Nguyễn Xuân An.
Ông Nguyễn Xuân An tại hội thảo thuyền phao, Đà Nẵng12/2006. |
Tự nguyện “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”
Trong hơn một năm trời sau khi nảy ra ý tưởng "thuyền - phao" độc đáo và dễ ứng dụng, ông Nguyễn Xuân An dành toàn bộ thời gian và sức lực cho sáng chế. Ban đầu, ông dùng ngay mẫu chiếc thuyền nan tre câu mực của ngư dân, thực hiện các cải tiến và tháng 10/2006 đã được Bộ Thuỷ sản thử nghiệm lần đầu ngay tại Hồ Tây, Hà Nội. Kết quả đúng với mong đợi, thuyền phao tre nan đã là bước tiến bộ vượt bậc so với thuyền câu mực truyền thống. Song không dừng lại ở đó, ông nâng cấp vật liệu chế tạo vỏ thuyền là loại com-pô-dít có độ bền va đập cao. Ban đầu ông chế thử thuyền phao com-pô-dít ngay tại Hà Nội, song phải thử nghiệm trên biển mới sát với hiện thực, thế là ông liên hệ được với nơi có nhiều đội thuyền câu mực đại dương là Đà Nẵng, nơi từ chính quyền sở tại đến ngư dân đều sẵn sàng hợp tác với nhà sáng chế. Mẫu thuyền mới tuy chỉ nặng hơn một tạ, song đường kính tới 3 mét, khá cồng kềnh, ông lại phải chạy vạy thuê phương tiện chuyên chở đặc biệt từ Hà Nội vào, bao công phu và tốn kém. Từ đầu năm 2007, ông chuyển địa điểm chế tạo và thử nghiệm vào hẳn thành phố biển Đà Nẵng. Ông đi về hai nơi như con thoi. Khi đến các cơ quan chức năng của thành phố tìm sự giúp đỡ, khi xuống phường bàn bạc với ngư dân, rồi đặt nhà sản xuất, chế tạo... Tất nhiên với một người đã nghỉ hưu, một nhà sáng chế tự nguyện như ông, thì mọi chi phí cho công việc đều từ tiền túi bỏ ra và có lẽ việc ông làm thật hợp với câu ngạn ngữ "ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng". Nhưng ông "vác tù và hàng tổng" với cái tâm trong sáng, không hề có sự đắn đo hơn thiệt, trong lòng chỉ nghĩ sao giảm được tối đa rủi ro cho ngư dân đi biển và nếu làm tốt được điều đó, đã là một phần thưởng rất lớn với ông rồi! Bà con ngư dân hiểu tấm lòng nhiệt tình của ông, hồ hởi đón nhận, theo sát và tận tình truyền kinh nghiệm cho ông, người "ngoại đạo" về đánh bắt hải sản, để ông có điều kiện bổ sung, hoàn chỉnh công trình của mình. Trong quá trình thực hiện, đã có nhiều lời khen, nhận xét, góp ý cho công trình, từ các nhà khoa học có chuyên môn cao, đến các nhà doanh nghiệp hoặc người đi biển ít học. TS. Nguyễn Xuân Mai, Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản - Bộ Thuỷ sản (cũ), đồng thời là chủ tịch Hội đồng thử nghiệm, phát biểu: "Do giữ được nguyên hình dáng bên ngoài của thuyền thúng truyền thống nên thuyền thúng phao vẫn đảm bảo được tính năng, công dụng, khi gặp nạn lại trở thành phao cứu sinh. Điều này là rất độc đáo, hoàn toàn có thể thay thế phao bè trên tầu cũng như công tác cứu nạn". Ông Huỳnh Ngọc Lợi, chủ tịch Hội Nông dân phường Thọ Quang, quận Sơn Trà (Đà Nẵng): "Về cơ bản thuyền thúng phao có tính năng ưu việt hơn thuyền thúng truyền thống do có thể chuyển sang chế độ phao cứu hộ cho bà con ngư dân. Nên làm bằng com-pô-dít thay lớp vỏ tre, có độ bền cao lại đỡ tốn kinh phí bảo dưỡng sau mùa đánh bắt". Ông Võ Đình Nhất, thuyền trưởng ĐN90007, tàu bị nạn trong cơn bão Chanchu : "Ý tưởng làm thúng phao và lắp dây an toàn cho ngư dân là rất hay. Tôi sẽ bàn với ông An chế thử vài chiếc thuyền thúng phao câu mực đại dương bằng com-pô-dít để dùng thử, nếu tốt thì nhân rộng...". Các mẫu thuyền phao mang ký hiệu "AN" lần lượt ra đời: AN-1-TP; AN3 dùng cho lưới cản; AN5 dùng cho câu mực đại dương. Bên cạnh mẫu thuyền thúng phao, sau vụ đắm đò ở Quảng Bình làm nhiều học sinh thiệt mạng, ông còn mở rộng ứng dụng cho thuyền hai mũi và phối hợp với một công ty com-pô-dít ở Phủ Lý, Hà Nam đã chế thử thành công mẫu thuyền phao hai mũi đầu tiên cung cấp cho vùng Cấm Sơn, Bắc Giang nơi có bến đò gần một trường học.
Một thử nghiệm tại biển Đà Nẵng: thuyền thúng phao bị lật úp trở thành phao cứu sinh cho ngư dân bám vào. |
Đầu xuôi nhưng đuôi chưa lọt!
Tháng 9/2006, Bộ Thủy sản (cũ) đã có quyết định thành lập hội đồng khoa học công nghệ xem xét công trình của ông Nguyễn Xuân An. Hội đồng đã nghiệm thu và kiến nghị Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Trung tâm Khuyến ngư quốc gia cùng tác giả đề tài tổ chức hướng dẫn, chuyển giao cho ngư dân sử dụng thử với số lượng 10 chiếc, sau đó tiếp tục hoàn thiện công trình trước khi đưa vào sử dụng đại trà... Mọi việc đều thông đầu bén dọt như vậy, những tưởng "đầu đã xuôi"...
Mới đây, tôi đến thăm tác giả công trình tại nhà riêng số 7A ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội, thấy một chiếc thuyền thúng phao đường kính tới 3 mét còn đang treo trước sân. Nét mặt chủ nhà không được vui khi tôi hỏi sao chiếc thuyền này lại nằm đây, mà không phải ở một làng chài ven biển? Theo ông Nguyễn Xuân An, sở dĩ công trình bị "đuôi chưa lọt", chỉ vì thiếu vốn. Bộ Thuỷ sản cũ(nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), cùng chính quyền sở tại chỉ có thể ứng kinh phí chế thử vài chiếc, khi đã nghiệm thu được rồi, chính các chủ tầu phải bỏ vốn để sắm sửa công cụ mới cho mình. Ách tắc tại đây. Cách làm lâu nay của các chủ tau là họ tự trang bị một số lượng thuyền nan câu mực nhất định rồi thuê ngư dân đánh bắt, nay một lúc đầu tư mới hàng vài chục triệu đồng thì họ không đủ vốn, hoặc có đủ cũng ngại đầu tư lớn một lúc, trong khi mỗi lần ra khơi như đánh bạc, được mất khôn lường (thuyền phao cải tiến đắt khoảng gấp hai lần thuyền nan thông thường). Như vậy không thể hoàn toàn trách các chủ tau được. Theo ông An, nếu nhà nước thấy cần nhân rộng sáng chế này, tạo điều kiện an toàn cho ngư dân ở mọi miền, thì nên có chính sách hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi cho các chủ tau, để họ tự đổi mới trang bị. Bên cạnh đó, cần quan tâm đầu tư thí điểm mở rộng thêm cho một vài địa phương hoặc một số đội tàu cụ thể, để sau mùa mưa bão đầu tiên với phương tiện mới, có thể rút được nhiều kinh nghiệm bổ ích, các nơi đến học tập, tiếp tục nhân ra. Ông đã gửi thư cho 16 vị chủ tịch các tỉnh có biển từ Thanh Hóa trở vào, nói rõ sự cần thiết hỗ trợ vốn cho ngư dân và phương hướng triển khai thực tế, mà chỉ có một, hai nơi hồi âm. Đến nay công trình dường như vẫn dẫm chân tại chỗ, mặc dù trong những năm qua, nó đã gặt hái được bao nhiêu là vinh quang, bảo đảm đây là một tiến bộ khoa học kỹ thuật: Cúp Vàng Techmart Việt Nam 2007; Giải nhất Giải thưởng sáng tạo kỹ thuật ngành thủy sản, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2007; Bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Giải khuyến khích Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam 2007.
Ông Nguyễn Xuân An nói với tôi, mùa mưa bão năm nay lại đến rồi, cái thuyền phao cứu sinh vẫn treo kia, không biết bao nhiêu bà con ngư dân bị gặp nạn mà có thể trở về an toàn nếu có trong tay một phương tiện vừa để hành nghề, vừa bảo đảm an toàn tính mạng cho mình như thế. Trong quá trình trò chuyện, đến khi sắp phải tiễn khách, hình như ông không muốn nỗi trăn trở của mình "lây" sang tôi, ông bảo, nghề địa chất đã rèn cho ông tinh thần lạc quan, như việc đi tìm mỏ trước hết phải có niềm tin, rồi kiên trì nhẫn nại, còn một tia hy vọng vẫn tìm. Giờ ông chưa hề mất niềm tin. Được sự chung tay gỡ khó của nhà nước, sự ủng hộ của các doanh nghiệp hải sản và bà con ngư dân, đến một lúc nào đó nhất định ông sẽ được chứng kiến sáng chế của mình ứng dụng rộng rãi trong cả nước. Khi ra về, lòng tôi cũng được nguôi ngoai phần nào bởi niềm tin của người cán bộ địa chất kỳ cựu có tấm lòng nhân ái với quê hương, đất nước ấy truyền sang.
Phạm Quang Đẩu