Trung úy quân y ven trời Tây Bắc

04-01-2012 08:14 | Xã hội
google news

Rét thấu xương nhưng hoa chó đẻ vẫn bung sắc trắng, cúc quỳ vẫn dát vàng bên các vệ đường báo hiệu Tết của người Hà Nhì xã Sín Thầu đang tới và mùa xuân sắp về. Hơ tay trên chậu than rực hồng, tôi hỏi Trung úy Trạm trưởng Trạm kết hợp quân dân y Trần Đăng Dân, Đồn biên phòng 317 A Pa Chải, nơi tiếng gà gáy 3 nước Việt-Lào-Trung cùng nghe:

Rét thấu xương nhưng hoa chó đẻ vẫn bung sắc trắng, cúc quỳ vẫn dát vàng bên các vệ đường báo hiệu Tết của người Hà Nhì xã Sín Thầu đang tới và mùa xuân sắp về. Hơ tay trên chậu than rực hồng, tôi hỏi Trung úy Trạm trưởng Trạm kết hợp quân dân y Trần Đăng Dân, Đồn biên phòng 317 A Pa Chải, nơi tiếng gà gáy 3 nước Việt-Lào-Trung cùng nghe:

- Tới đây, Trung úy có về quê vui Tết?

Dân đáp gọn lỏn:

- Không. Tết năm ngoái em về rồi. Tết này đến lượt anh em khác!

Biết Dân dấn thân nơi núi non trùng điệp này là sự xung kích thầm lặng vì sức khỏe của chiến sĩ và dân bản, tôi bắt đầu cuộc chuyện với anh bằng: Đường lên biên giới.

Biên ải dằng dặc gian nan

Khuôn mặt rất lính, giọng trầm ấm, Dân kể, thỉnh thoảng lại đế vào mệnh đề nghe vu vơ: “Đúng là đời chưa thế bao giờ”!... Thương cha mẹ nhọc nhằn nuôi 4 anh em ăn học nên chỉ còn một năm mới học hết phổ thông (tuổi 18 - năm 1993), Dân tình nguyện rời quê Xuân Trường, Nam Định, bước vào đời lính. Sau 2 năm rèn giũa và học ngoại ngữ tại Trung tâm Huấn luyện Bộ đội Biên phòng, Dân quyết định viết đơn tình nguyện lên Tây Bắc. Ai ngờ đồng đội chêm đệm đủ điều: Có hâm không đấy? Đầu óc có vấn đề rồi! Về Châu Quỳ chữa chạy ngay đi!... Đã thế, biết tin này, bố mẹ khóc suốt mấy ngày, sức lực suy sụp, vì Dân là trưởng và là con trai duy nhất. Khuyên can không được, mẹ rỉ tai dặn dò: Con phải giữ mình. Nơi ấy là chốn rừng thiêng, nước độc, ma nhập, quỷ ám. Người ta chài thì khốn!...

“Thú thực, em cũng không nghĩ đường lên biên giới lại gian nan đến vậy. Nhớ buổi xuất hành đầu tiên, theo lệnh của Chỉ huy trưởng Cao Thế Khiển, em cùng mấy chiến sĩ áp tải hàng trên xe Zin 30 từ kho 101 lên Bộ Chỉ huy tỉnh đóng ở thị xã Điện Biên, tỉnh Lai Châu. Ngày ấy, đường xá đâu như bây giờ. Xe ì ạch qua Dốc Cun rồi lên đèo Dốc Má. Tháng 10, mưa rừng tầm tã. Đường đất lầy lội, ổ trâu, ổ voi, những đường cua thót tim, những đèo cao, vực thẳm ngẹt thở… Lỡ độ đường, mệt nẫu thân, đói quặn ruột phải đội mưa đêm cả cây số lần vào bản Mường xin sắn luộc thay cơm. Thú thực, lúc ấy, em ớn lạnh tới tận sống lưng. Tự dưng nước mắt trào ra. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mà lại chọn về chốn gian nan này?... Lót dạ mấy khúc sắn luộc, lên xe đi tiếp. Nói xấu hổ, em định “lỉnh” ngay đêm ấy. Nhưng cũng lại sợ “mất danh” với bạn gái (chính là Hạnh, vợ em bây giờ)… Rồi cứ thế quê hương xã Xuân Thành, đất lúa mênh mang, lời quê ngọt ngào, bố mẹ tảo tần nuôi bốn anh em ăn học cứ ào ập tràn về trong nỗi nhớ diết da… Anh tính đời thuở nào, khỏe như xe Zin mà lên - xuống đèo Pha Đin mất tới 8 tiếng đồng hồ… Đã thế, tới Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh (mới chuyển về) cũng xập xệ lầy lội phải dùng xe Gát kéo xe hàng vào kho. Chặng đường chỉ nửa ngàn cây số phải mất 5 ngày trời mới tới. Bụng bảo dạ rồi đây mỗi khi nghỉ phép phải nửa tháng trời mới tới nhà. Rõ là dại! Đúng là đời chưa thế bao giờ!...”.

Chần chừ cho tới lúc anh Chuông - Trưởng ban Quân lực thôi thúc, Dân mới chịu nộp hồ sơ. Tại đây, tổ chức gửi anh đi học Trung cấp y tế 3 năm ở thị xã Lai Châu. Lưỡng lự lại nảy sinh: đời lính phải làm lính mới rắn rỏi, oai vệ chứ quân y xem ra yếu đuối thế nào ấy. Nhưng quyết định là lệnh của nhà binh. Lên xe khách về Mường Lay, đi từ mờ sáng đến tối sập mới tới trường. Đêm, ngồi trên xe, thị xã Mường Lay lung linh ánh điện tầng tầng, lớp lớp, niềm vui lâng lâng khó tả ào về. Cứ như trang đời đã mở! Nào ngờ sáng dậy, xoay bốn phía, phương nào cũng núi. Ngửa mặt nhìn trời cũng núi. Cúi xuống chậu nước rửa mặt cũng núi. Núi và núi. Núi ở đầy trong mắt! Anh Sáu cán bộ của trường ra lời phủ đầu: - Thằng hâm, lên đây làm gì cho khổ? Dân nén buồn, mạnh mồm: - Em lên, chỉ cốt gánh khổ cùng các anh thôi!...

“Vào cuối cái năm có ba số chín (1999), tốt nghiệp Cao đẳng y, em đem tấm bằng về trình anh Chuông - Trưởng ban Quân lực, anh cất giọng đĩnh đạc: - Bây giờ y sĩ quân y thích về đâu? Em vò đầu gãi tai: -Thưa thủ trưởng, chiếu cố cho em về đơn vị nào mà không phải tiêu đến tiền. Vì em không có tiền! Trưởng ban đáp: - Tốt. Thế thì về đồn Nậm Xe 277, Phong Thổ, Lai Châu! Em hỏi lại: - Đồn ấy ở đâu, có xa không ạ? - Nói rồi, ở Nậm Xe. Xa tít tận Nậm Xe. Nghe người ta bảo ở đó có uranium. Ai bị nhiễm sẽ không có con! Em giật bẫng người, la lên: - Thôi thế thì chết em rồi! Rõ tội. Đời chưa thế bao giờ! Anh Chuông bật cười khầng khậc như mách bảo: Đó chỉ là phép thử cân não. Trưởng ban dõi thẳng đôi mắt vào em, giọng cắt đặt: - Trước khi về Nậm Xe, hãy cùng anh em lên Đồn biên phòng Pa Ủ, Mường Tè. Coi đây là chuyến tập sự của chiến sĩ quân y Trần Đăng Dân!

Khốn khổ, về Pa Ủ chỉ vài trăm cây số, chưa gọi là xa. Ấy vậy mà người lái xe uoát và chúng em phải vật lộn với đường, với trời đất suốt 3 ngày đêm ròng rã. Trời mưa. Đường trơn trượt. Mỗi lần xe sa lầy lại phải dỡ hàng, kê kích kéo xe lên. Đến gần thị trấn Mường Tè, đường lổn nhổn những đá cục đá cồ, phải dọn đá cho xe đi. Lên xe, ngoái lại cả cánh rừng cứ rung rinh rồi tuột xuống, đặt cả ngọn núi lên mặt đường. Thoát núi vùi lại gặp suối lũ. Xuống cho nhẹ thì xe sẽ trôi, ngồi lại xe nặng sẽ quay ngang. Kết cục, phải ngủ rừng chờ vợi lũ, rồi lại phải qua thác để tới Nậm Củm, thêm ngày nữa mới đến bản Giẳng để lên đồn Pa Ủ, huyện Mường Tè, nơi chỉ có rất ít người dân tộc La Hủ sinh sống nhưng ai cũng tốt bụng. Khốn nỗi, biên ải càng đi càng xa. Đúng là đời chưa thế bao giờ!...”.

Hôm anh Diễn (người đồng hương Nam Định) cùng mấy cán bộ ở Đồn biên phòng Nậm Xe 277 ra Ban Quân lực công tác, tự dưng nỗi ái ngại nẫu nả trong lòng Dân. Ấy là khi quan sát, Dân thấy hình như người nào cũng có dấu hiệu “nhiễm”: Anh Diễn gầy nhom, da sạm; anh Hà đen đủi, môi thâm, mắt lồi; anh Minh - Phó đồn trưởng béo ị, đen như người Phi châu...Không nhẽ mình “lủi”… Nghĩ là thế nhưng bụng bảo dạ: Đã là lính biên phòng thì cứ đi, cứ ở!

Sáu năm ở đồn Nậm Xe 277, ăm ắp kỷ niệm. Nơi đây, các bản của người Dao, người Ráy cách rất xa Trung tâm y tế xã. Đau ốm cần viên thuốc, dân bản phải cuốc bộ nửa ngày mới tới trung tâm. Cho nên họ thường tới nhờ đồn khám và xin cấp thuốc. Những ngày ấy, cán bộ quân y chỉ có mình Dân, mãi sau mới thêm một y tá. Nhớ lần sản phụ người Dao ở bản Po Cha đẻ sinh đôi, nhờ Dân giúp. Nhận lời, nhưng rất run vì khi học điều kiện khá đầy đủ, tiếc nỗi không chuyên sâu về sản, nhất là sinh đôi. Lần theo vệ núi, 2h sáng Dân mới tới được nhà sản phụ. Dân thấy sản phụ ngồi trên chiếc đôn nhỏ, hai tay vươn cao nắm chặt đầu sợi dây thừng buông từ xà nhà xuống, mặt ngửa lên kêu trời, gọi đất. Phải mất cả thôi cả hồi thuyết phục, gia đình mới chịu đưa sản phụ lên giường. Cũng rất may, ca đẻ mẹ tròn con vuông!...

Vẫn mạch chuyện, Dân kể tới những năm từ 2004 đến cuối 2007, anh được điều về Đồn biên phòng Cửa khẩu Tây Trang vào đúng thời điểm chống tội phạm buôn bán ma túy quyết liệt. Ở đây không có trạm mà chỉ có y sĩ của đơn vị. Nhiệm vụ của chiến sĩ quân y nặng nề, phải chăm sóc sức khỏe chiến sĩ thật tốt và đi sát lính trong các vụ đánh án, đồng thời phải cứu chữa bệnh tật cho đồng bào các dân tộc xã Na Ư. Biết bao chuyện, bao việc khó mấy cũng đi, cũng làm để tựa vững vào dân bản vẫn in trong trí nhớ của Dân… Thấy Dân có “khiếu” đỡ đẻ nên giữa năm 2007, cấp trên cử đi học lớp Chuyên khoa Sản nhi và Y tế cộng đồng trong Chương trình Liên thông Cục Quân y Bộ đội Biên phòng với Bộ Y tế… Đến chuyện được điều về Ban Quân y, trực thuộc Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh, tham gia xây dựng trạm kết hợp quân dân y với hai phòng khám ở Nậm Sua, Nà Hì, Mường Nhé… Trạm đi vào hoạt động, Dân lại xuống Mường Lay giúp bà con dân bản. Cuối năm 2009, Dân được điều về Đồn biên phòng 317 A Pa Chải. Giờ đây, Dân nói như chặt, như khắc: Trên điều thì lính cứ đi, bảo ở thì khó mấy cũng ở!

Ấm đậm tình dân bản

 

Cuộc chuyện sắp khép lại để cùng Trạm trưởng xuống với dân bản xã Sín Thầu thì loáng thoáng bóng người ăn vận sắc phục dân tộc đi vào. Dân nói nhỏ: Nhà báo vui lòng chờ em nhé! Dân bản tới nhờ khám, em phải giúp họ. Tôi hỏi ngay: Trạm làm việc cả chủ nhật sao? Dân bảo: Chúng em đâu có ngày nghỉ. Chỉ khi không có bệnh nhân và người thăm khám thì mới được xả hơi. Xưa họ chữa bệnh bằng thầy mo thầy cúng. Chúng em phải tìm đến với họ. Nay họ tìm đến với thầy thuốc là thắng lắm rồi!

Lên A Pa Chải mới nhận thấy sự hy sinh thầm lặng của người lính biên phòng là vô bờ bến. Bữa ăn của lính dù cố công tự túc, tự cấp đến mấy thì vẫn là đạm bạc. Gạo không thể mới. Gà không dễ nuôi. Rau không dễ trồng vì sự nghiệt ngã của thời tiết. Giao thương, chợ búa đường biên lèo tèo… Mùa mưa, nóng dai dẳng suốt từ tháng tư đến hết tháng mười - gió Lào, lũ đổ, núi lở, đường trơn, giao thông nghẽn tắc - mùa khô dằng dặc từ tháng 11 năm trước tới hết tháng 3 năm sau. Chiến sĩ biên cương quen gọi là mùa lạnh. Lạnh trộn lẫn gió núi tê tái thịt da, thấu tận xương tủy cho dù áo quần nai nịt, cho dù lửa đốt thâu đêm. Biên cương, núi tiếp núi, rừng rậm, suối sâu, sớm chiều mây phủ. Với người lính tuần biên thì đúng như thơ ai đó: “Mây vây quanh người/ Và núi dưới chân”. Cảnh ấy khiến tôi nằm lòng lời tâm sự của Dân trong đêm ngủ cùng anh tại căn phòng nhỏ của đơn vị: Từng trải gần 20 năm với ven trời Tây Bắc, em nhận ra làm người phải biết chịu đựng, biết hy sinh và phải có cống hiến. Không thế sẽ là vô nghĩa!...

Dân tộc Hà Nhì mỗi khi ốm đau, bệnh tật, khó đẻ đã biết gửi trọn lòng tin vào thầy thuốc, đã tìm về Trạm A Pa Chải để cậy nhờ, để mời y sĩ Dân, Thanh, Quế tới cứu chữa…Niềm tin ấy bắt đầu từ những ngày cán bộ, y sĩ của Trạm chủ động tìm đến khám chữa bệnh, cấp thuốc tại nhà cho họ. Để rồi sau đấy họ biết tìm lên Trạm, biết trọng thầy thuốc như những vị cứu tinh. Bởi thế, y sĩ Trạm trưởng Trần Đăng Dân mới có vinh dự là một trong số 80 thầy thuốc trẻ tiêu biểu được tuyên dương tại Chương trình “Thầy thuốc trẻ và tình nghĩa yêu thương” là những tấm gương xung kích, tình nguyện vì sức khỏe cộng đồng, vì sự phát triển của nền y học. Cũng bởi mấy năm qua, Trạm của Dân đã tổ chức khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho gần 1.600 lượt người với số tiền gần 30 triệu đồng; tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS cho nửa ngàn lượt người, phát 300 tờ rơi; tuyên truyền phòng chống sốt rét cho 300 lượt người; đỡ đẻ an toàn cho 30 ca…
 
Thiếu tá Đồn trưởng Nguyễn Đức Thắng kể rằng: Trần Đăng Dân là người có công xây dựng Trạm và cũng là người đề xướng với lãnh đạo đồn và xã Sín Thầu ký kết hợp đồng khám bảo hiểm cho dân để họ đỡ thiệt thòi vì đường xuống huyện quá xa xôi. Cho nên chỉ trong 3 tháng cuối năm 2010, Trạm đã cấp tới 26 triệu tiền thuốc cho dân thuộc các bản A Pa Chải, Tả Kho Khừ và Pờ Nhừ Khồ do Trạm phụ trách khám bảo hiểm… Hỏi chuyện cô gái trẻ vừa rời phòng khám - Trăng Sin Hoa, nhà ở bản Tả Kho Khừ, cách trạm 12km. Em bảo từ ngày có Trạm, có y sĩ Dân về đây, đau ốm người bản em thôi tìm đến thầy mo thầy cúng. Trạm cho thuốc uống nhanh khỏi lắm! Hỏi chuyện Trá Nu và Vù Khóa Nu cùng ở bản A Pa Chải, các em nói: Trạm với bản em như người nhà của nhau.
 
Từ độ y sĩ Dân làm Trạm trưởng, làm Bí thư Đoàn của Đồn biên phòng, chúng em thường giao lưu văn hóa văn nghệ, thể thao với nhau vui lắm mà. Các y sĩ còn giúp dân biết cách ăn ở vệ sinh, xanh, sạch, đẹp; biết cách giữ sạch nguồn nước suối Mo Phí bằng cách không thả gia súc; trồng cấy cây vụ đông như lạc, đậu tương, rau cải, hạt giống do y sĩ Dân mua tặng. Y sĩ Dân lại cho số điện thoại để dân bản Hà Nhì chúng em điện tới khi ốm đau, sinh đẻ khó khăn. Vù Khóa Nu, giọng ơn nghĩa: “Bố mẹ em đều là cựu chiến binh Điện Biên Phủ, nay quá nhiều bệnh. Nhờ y sĩ Dân nên mẹ khỏe lên nhiều”. Trá Nu giọng chân tình: Làm thầy y, dân bản thương quý lắm. Tết sắp về rồi, người bản ai cũng muốn mời cán bộ Trạm tới ăn Tết. Em quyết theo học ngành y để về giúp dân bản như bộ đội Biên phòng đã giúp người Hà Nhì của em!...
 
Trên đường xuống bản, tôi nói với Dân: Giữa năm, mình tìm lên đây vì Tổng biên tập Hoàng Văn Thành - Báo Điện Biên Phủ nói rằng Dân đỡ đẻ bằng mẹt, rất tiếc không gặp vì Dân về Hà Nội dự lễ vinh danh “Thầy thuốc trẻ và tình nghĩa yêu thương”. Trần Đăng Dân bật cười thành tiếng, lời chộn rộn: Chuyện dở cười dở mếu. Đúng là đời chưa thế bao giờ! Phụ nữ Hà Nhì thường rất cả thẹn. Trước đây, họ không bao giờ để đàn ông đỡ đẻ. Khi Trạm phổ biến, ai đẻ cứ gọi y sĩ Dân. Họ bịt miệng cười xem như chuyện hài hước. Thực lòng em cũng ngại, vì nhiều cái không lường trước được, khi học không thấy. Trạm chưa có bàn đẻ nên chúng em thường vận động họ tới đẻ ở Trung tâm y tế xã.
 
 Trung úy quân y Trần Đăng Dân khám bệnh cho người dân.
Còn chuyện đỡ đẻ bằng mẹt thực ra là thế này: Con dâu ông Gia Tư ở bản A Pa Chải là Sùng To Nú sinh con đầu lòng, khó đẻ nên ông ta gọi đến. Ghé mắt vào gian buồng hẹp thấy sản phụ ngồi trên chiếc đôn đặt vào lòng chiếc mẹt được trải một lượt nilon, bên cạnh là bếp lửa rần rật cháy xen khói cay xè cay xẹt. Em bước vào thì sản phụ xua tay quầy quậy, nhất quyết không cho tiếp cận. Gia đình cùng em phải dỗ dành hồi lâu mới chịu cho thăm khám. Ngồi ghế để đẻ rất khó và dễ ảnh hưởng tới sinh mạng của bé. Giục sản phụ lên giường thì họ bảo: “Cái lý” của Hà Nhì ta nó thế. Lại phải hết lời vận động, thuyết phục rồi họ mới chịu bế con lên giường. Khốn nỗi, căn buồng quá chật, chiếc giường một cũng quá hẹp, để sản phụ nằm ngang giường thì người nhà phải đỡ đầu cho cô ấy. Em cúi xuống, lúi húi, loay hoay đặt chiếc mẹt cốt để nước ối và huyết khỏi chảy ra nhà, ai ngờ cô ta lại nín thở rặn đẻ quyết liệt khiến nước ối phun đầy đầu, đầy mặt, nhưng đâu dám bỏ cuộc. Đúng là đời chưa thế bao giờ!… Chuyện dở dang thì đã tới nhà ông Gia Tư. Ông hồ hởi đón khách rồi gọi thằng cháu nội: Pờ Đức Đăng đâu, lên với bố Trần Đăng Dân đi! Mẹ cháu đưa con lên với “bố” Dân, đôi má đỏ hồng, thẽ thọt chào khách rồi vội lẻn xuống bếp. Hình như nét thẹn thùng về cái sự vô ý với y sĩ quân y vẫn đặc quánh trong lòng người mẹ trẻ.
 
Ông Gia Tư luôn miệng nói với tôi: Cán bộ Dân của Trạm quân y giỏi quá, tài quá! Còn tôi lúc ấy cứ ngây ra, nghĩ thầm: Sao cái tên của thằng bé lại na ná tên và chữ đệm của Dân. Tôi hỏi: Thưa ông, thế bố cháu Đức Đăng đâu? Ông đáp: Nó đi làm xa. Vài tuần mới về một hai ngày!… Hiểu ý tôi, Trần Đăng Dân xen vào, đặt tên cho bé là do em. Đăng là đệm của em, Đức là tên con trai trưởng của em. Theo “cái lý” này thì em đã có tới 30 con trai và gái ở vùng đất này rồi. Ông Gia Tư lại đỡ lời: “Cái lý” của người mình nó thế. Trong vòng 3 ngày, người đỡ đẻ phải thực hiện “cái lý” đặt tên cho bé. Khi bé chưa có tên thì không ai được tới nhà! Dứt lời, ông thả cả chuỗi cười ha hả. Giọng co níu: Tết này nhất định y sĩ Dân và các cán bộ phải ăn Tết với gia đình ta đấy nhé!...

Xuân đang về. Tết Nhâm Thìn sắp đến. Hoa cúc quỳ ven trời Tây Bắc bung bang sắc vàng như thông điệp trường cửu ấm đậm tình dân với chiến sĩ biên phòng, ngày nối ngày cùng nhau vun vỗ, ở đó có công của y sĩ Trần Đăng Dân.                            

 

  Bút ký củaNguyễn Uyển
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn