Nhà thơ Nguyễn Trung Thu. |
Trong số sinh viên và cán bộ giảng dạy tại các trường đại học nhập ngũ ngày 6/9/1971, Nguyễn Trung Thu là một trong những binh nhì "già nhất". Anh vốn là cán bộ giảng dạy Khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp. Duyên trời đã đưa anh Thu và tôi vào chiến trường cùng một ngày, ở cùng một đơn vị. Những ngày vượt Trường Sơn đầy nhọc nhằn và vất vả. Tôi thua anh Thu ngót chục tuổi mà đã thấy mệt. Vậy mà anh Thu vẫn cắn răng vượt dốc, băng đèo lội suối cùng đơn vị. Không một lời phàn nàn. Không một lời kêu ca oán thán. Những ngày đơn vị dừng chân, anh Thu thường tranh thủ nói chuyện thơ với anh em. Nhờ anh Thu mà tôi bắt đầu yêu thơ, làm thơ. Khi biết tôi rất thích bài thơ Cánh buồm của nhà thơ Nga Léc-mông-tốp, anh đã chép vào sổ tay của tôi bài thơ do chính anh dịch từ tiếng Nga. Tôi rất tâm đắc hai câu thơ cuối bài mà anh dịch "Nhưng buồm phản kháng đòi giông bão - Dường như trong đó mới bình yên".
Vào một đêm trăng rừng Thừa Thiên khoảng tháng 6/1972, trăng sáng đến mức không ai muốn ngủ. Đã rất khuya, tôi vẫn còn trằn trọc trên võng. Những kỷ niệm Hà Nội giữa Trường Sơn khiến lòng người lính nôn nao đến lạ. Bỗng tôi thấy có người lay võng mình. Hóa ra là anh Thu. Anh kéo tôi ra bờ suối, lấy đâu ra điếu thuốc lá "Tam Đảo", bật lửa cho tôi châm và bảo: "Kha nghe bài thơ mình vừa viết xong nhé". Thế là anh hắng giọng rồi đọc: "Đêm Trường Sơn, chúng cháu nhìn trăng nhìn cây/ cảnh về khuya như vẽ... bâng khuâng chúng cháu nghĩ/ Bác như đã đến nơi này...". Giọng thơ anh Thu cứ như thế vang lên giữa tiếng suối chảy, giữa đêm trăng vằng vặc đại ngàn. Đó là đêm khai sinh bài thơ Đêm Trường Sơn nhớ Bác nổi tiếng của Nguyễn Trung Thu mà tôi may mắn là người được chứng kiến. Sau chiến dịch Quảng Trị, anh Thu được đưa về Trung đoàn, rồi được lệnh đưa ra Hà Nội làm báo. Đêm chia tay thật ấn tượng và cảm động làm tôi nhớ lại cái ám ảnh chia tay ở sân ga Hàng Cỏ ngày chúng tôi vào chiến trường. Ngày ấy, chị Hòa (vợ anh Thu và là em gái nhạc sĩ Vĩnh Long, Vĩnh Cát, Vĩnh Bảo) mặc áo trắng học trò đưa tiễn chúng tôi. Khi đoàn tàu chuyển bánh, chị Hòa chạy theo. Tàu tăng tốc thì bóng chị Hòa nhỏ dần thành một đốm trắng. Cái đốm trắng ấy cứ theo chúng tôi suốt năm tháng Trường Sơn. Nhắc lại kỷ niệm này, anh Thu rất cảm động và chép tặng tôi bài thơ Sao rừng...
Tôi ở lại xuyên Trường Sơn cùng đường dây thông tin kéo đến Tây Nguyên phục vụ chiến dịch Buôn Ma Thuột. Chiến trường vắng anh Thu nhưng lại nghe Đêm Trường Sơn nhớ Bác qua Đài tiếng nói Việt Nam, tốp ca nam Nhà máy toa xe Hải Phòng quê tôi trình diễn. Bài thơ của anh do nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc. Hòa bình trở lại, nhiều buổi cả 3 chúng tôi, anh Thu, nhạc sĩ Trần Chung và tôi uống bia với nhau ôn lại kỷ niệm xưa. Chúng tôi luyến tiếc một thời gian khổ nhưng ấm áp tình người. Ngày nhạc sĩ Trần Chung mất, tôi và anh Thu đã tiễn biệt anh Chung với lòng tiếc nuối khôn nguôi. Nay số phận lại gọi nhà thơ Nguyễn Trung Thu về với cao xanh, ở tuổi 70 "nhân sinh thất thập", vào trưa ngày 6/6/2009.
Nguyễn Trung Thu là một trong số ít những người làm thơ lặng lẽ. Anh đã có những tập thơ Đêm Trường Sơn nhớ Bác, Em hoặc không ai cả, Kỷ niệm về lời ru buồn, Đôi mắt xa xăm, Tím biển biếc trời, Thao thiết tiếng khua. Thơ của anh là tiếng nói của con tim, của cảm xúc chân thành... là của một con người bình dị, yêu thơ với tình yêu cháy bỏng của mình.
Nguyễn Thụy Kha