Nhìn sang phương Tây (I)

18-10-2013 11:02 | Văn hóa – Giải trí
google news

Từ thời Pháp thuộc, nhân dân Việt Nam dùng từ "người tây" để chỉ người Pháp là chủ yếu, nhưng cũng đồng thời là chỉ những người từ phương Tây tới, bất kể da trắng hay da đen.

Từ thời Pháp thuộc, nhân dân Việt Nam dùng từ "người tây" để chỉ người Pháp là chủ yếu, nhưng cũng đồng thời là chỉ những người từ phương Tây tới, bất kể da trắng hay da đen. Sau này, do quan hệ quốc tế và thông tin mở rộng, dân chúng đã có ý thức rõ hơn về sự khác nhau giữa các nước từ Tây Âu tới Bắc Mỹ...

Văn hóa phương Tây có 3 yếu tố: chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp, La Mã, yếu tố Do Thái – Kitô giáo, chủ nghĩa duy lý và khoa học.

1- Chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp – La Mã

Theo trình tự thời gian, chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp xuất hiện đầu tiên. Nhà thơ Anh Shelley (Se-li) đã viết: "Tất cả chúng ta đều là người Hy Lạp; luật pháp, tôn giáo, nghệ thuật của chúng ta đều bắt nguồn từ Hy Lạp". Phải công nhận là: Người Hy Lạp đã sáng tạo ra tất cả những lý tưởng nhân bản mà chúng ta thường coi là đặc trưng của phương Tây: tự do, lạc quan, chú trọng đến hạnh phúc con người ở trần thế, đề cao lý tính, văn hóa, coi trọng cả thân thể lẫn tinh thần, tôn trọng nhân phẩm và giá trị của cá nhân. Số phận cá nhân chỉ có thể do đa số định đoạt. Dĩ nhiên những lý tưởng ấy đều bị hạn chế bởi lịch sử, giai cấp nhưng là những ngọn đuốc sáng so với những chế độ cận Đông đương thời mang đậm dấu ấn độc đoán, uy lực, mê tín, hướng về đời sống bên kia trần thế, coi thường cá nhân... Văn học nghệ thuật cổ Hy Lạp cho đến nay vẫn còn là một nguồn cảm hứng dồi dào, nhất là triết học với những tổ sư Platon và Aristote. Chủ nghĩa nhân văn cổ đại phát triển rực rỡ nhất ở Hy Lạp vào các thế kỷ IV và V trước Công nguyên. Tiếp thu chủ nghĩa nhân văn Hy Lạp, La Mã đã có ảnh hưởng sâu đậm cho đến nay đối với phương Tây về nhiều mặt: kiến trúc, luật pháp, văn học (ảnh hưởng Hy Lạp nhiều hơn), tổ chức tôn giáo (giáo hội Thiên chúa giáo), tư tưởng về uy lực tuyệt đối của Nhà nước ban cho, khái niệm về đế chế do một dân tộc ngự trị. Trong lĩnh vực triết học, người La Mã hướng về hành động hơn là tư duy, không xuất sắc bằng Hy Lạp. Vào hậu kỳ cổ đại Hy Lạp (322 – 31 trước Công nguyên), trong quá trình La Mã hình thành, triết học Hy Lạp đã làm nảy mầm 3 trường phái sẽ chi phối triết học La Mã (chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa hoài nghi). Ba khuynh hướng này sẽ trở đi trở lại trong tư tưởng phương Tây.

2- Yếu tố Do Thái – Kitô giáo

(Judéo – Christianisme) là một đặc trưng sâu sắc của văn hóa phương Tây. Vào hậu kỳ cổ đại Hy Lạp (hellénitique), trên lãnh thổ Hy Lạp - La Mã, nhất là cận Đông, quần chúng hướng về những tôn giáo tín ngưỡng dựa vào xúc cảm, tình yêu Thượng đế, nội tâm, thần bí, khác với những tôn giáo tín ngưỡng Hy Lạp – La Mã dựa vào tổ chức bên ngoài, quy tắc máy móc. Đạo Do Thái, một đạo ra đời đã lâu, phát triển trong hoàn cảnh này song song với mấy tôn giáo khác của cận Đông. Đạo Do Thái để lại cho phương Tây ít nhiều qua đạo Kitô, một số tư tưởng chính trị và luật pháp, nhân phẩm và giá trị cá nhân, những yếu tố sau này dẫn đến khái niệm hiện đại về dân chủ.

Đạo Kitô (hay Cơ đốc) tiếp thu một phần quan trọng giáo lý của đạo Do Thái, nhất là qua Cựu ước (phần đầu Kinh thánh): tên Thượng đế, quá trình sáng tạo thế gian, lịch sử con người, mười điều giới luật, tội tổ tông và khá nhiều tư tưởng đạo lý, chính trị khác. Dĩ nhiên đạo Kitô do Chúa Jésus sáng lập khoảng ba chục năm đầu Công nguyên, thay đổi nội dung những yếu tố ấy cũng như tiếp thu và cải biên những yếu tố mượn của những tôn giáo, triết học khác: khái niệm về thế giới bên kia và sự xung đột vĩnh cửu giữa cái thiện và cái ác của đạo Ba Tư Zôroastre, sự tin vào một khả năng siêu tri thức về khái niệm "Thượng đế - Người" của những giáo phái ngộ đạo (gnosticisme), nghi lễ rửa tội và nghi lễ ngày chủ nhật cùng ngày 25 tháng Chạp của giáo phái Ba Tư thờ thần Ánh sáng, khái niệm về một thế giới đa dân tộc và tình anh em giữa mọi người trong trường phái khắc kỷ... Đạo Kitô cũng thu nạp nhiều tư tưởng triết học cổ Hy Lạp – La Mã của Platon, Aristote, Plotin.

Đạo Kitô xuất phát từ hoài bão của người dân Do Thái trông đợi một sứ giả của Chúa (Christos, tiếng cổ Hy Lạp) đến giải thoát khỏi ách đô hộ nước ngoài La Mã. Nó trở thành tín ngưỡng của dân nghèo và nô lệ. Nó tách dần khỏi đạo Do Thái. Do nội dung xã hội chủ nghĩa không tưởng, mới đầu nó bị đế chế La Mã đàn áp, nhưng đến thế kỷ thứ tư thì được coi là tôn giáo chính thức của đế chế La Mã. Trong xã hội tư bản châu Âu đã phát sinh xung đột giữa Nhà nước và Giáo hội, nhưng đạo Kitô vẫn là một yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, một nền tảng chủ yếu của văn minh và xã hội phương Tây. Đạo Kitô khác đạo Do Thái ở chỗ đề cao tuyệt đối đức tin và nội tâm. Mặc cảm tội lỗi là một yếu tố tâm hồn phương Tây. Nó bắt gốc từ giáo lý về sự sa ngã của con người do tội tổ tông, tuy được Chúa Jesus cứu vớt, con người xác thịt không có hạnh phúc ở trần gian được, phải biết sám hối, làm điều thiện, may ra linh hồn được hạnh phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia.
Hữu Ngọc (còn nữa)

Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn