"Gần ba mươi năm trời, mẹ chưa bao giờ thấy bác ấy ca thán hay phàn nàn một lời. Bác ấy đã dành hết tình thương, trách nhiệm và niềm thông cảm để chia sẻ với tất cả mọi người ở đây đấy con ạ!"- Đó là lời nhận xét chân thành, mộc mạc về bác sĩ Đào Phi Phụng của Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Nhung (89 tuổi) - một bệnh nhân "kì cựu" ở làng phong Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) bộc bạch với chúng tôi.
Cái số phải làm… thầy
Ở cái tuổi gần lục tuần nhưng trông bề ngoài và dáng vẻ của ông, tôi cứ ngỡ ông đã quá tuổi nghỉ hưu. Khi biết có người muốn viết về mình, bác sĩ Đào Phi Phụng bảo: "Mình có gì để các cậu viết đâu, toàn chuyện bình thường cả thôi mà!". Sau một hồi thuyết phục là muốn tìm hiểu, ghi nhận những điều mà ông gọi là "chuyện bình thường" ấy, bác sĩ Phụng chỉ ngồi cười tủm và khuôn mặt hơi đỏ lên khiến tôi càng tăng thêm sự tò mò ở ông bác sĩ của những bệnh nhân phong này.
Quê gốc của ông ở xã Định Công, huyện Yên Định (Thanh Hóa) - nơi ấy giáp với ngã ba sông Mã (gọi là ngã ba Bông - một tiếng gà gáy cả 5 huyện nghe). Ngày nhỏ, ông phải rời quê theo cha mẹ định cư lên xã Cẩm Sơn, huyện miền núi Cẩm Thủy. Năm 1972, chàng trai Phụng đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu chống giặc Mỹ. Những năm trong quân ngũ, chiến sĩ Đào Phi Phụng được đơn vị cử theo học nghề y để phục vụ quân đội. Hơn mười năm phục vụ trong quân đội, năm 1983, bác sĩ Phụng chuyển ngành về địa phương. Ông nhớ lại: "Ngày ấy, lẽ ra mình ở lại thị xã Thanh Hóa, nhưng vì chưa có vợ, lại nghe cấp trên động viên, khuyến khích về Cẩm Thủy, thế là xung phong về quê cho gần bố mẹ và gia đình thôi. Khi về đây làm việc, lúc ấy mới hay là mình được phân công về chăm sóc, chữa trị cho bệnh nhân phong. Âu cũng là cái số của tôi phải làm thầy thuốc, các cậu nhỉ!"- ông nói xong, tất cả chúng tôi đều cười.
Gần 30 năm, ngày nào bác sĩ Phụng cũng đến với bệnh nhân phong. |
Là người gắn bó với bệnh nhân phong gần ba mươi năm qua, hơn ai hết, bác sĩ Phụng thấu hiểu được nỗi đau, buồn tủi của bệnh nhân. Thế nên, dù cuộc sống của chính bản thân và gia đình ông những năm trước khá vất vả, nhưng ông vẫn quyết tâm gắn bó nghiệp "lương y như từ mẫu" của mình đối với bệnh nhân. Ông thổ lộ, có nhiều lúc vợ con ông và người thân khuyên nên rời khỏi cái "thung lũng đau thương" ấy, rồi đi xin làm ở một nơi khác thuận tiện hơn, nhàn nhã hơn. Và, cũng đã có lần ông cũng định làm đơn xin cấp trên cho ông được đi học lên cấp cao hơn, nhưng rồi lại thôi. Bởi, những năm đầu ông về đây làm, chứng kiến nhiều người ở dưới xuôi cũng xin đi học hoặc có người xin chuyển công tác vì không chịu được vất vả. Rồi đến lượt ông mà cũng bỏ đi như vậy thì những bệnh nhân đáng thương kia sẽ ra sao. Ông bảo: "Lẽ dĩ nhiên, không có mình thì sẽ có người khác làm. Nhưng, cứ nghĩ đến đó, tôi lại thôi". Vợ ông - một "hương sư" dạy trường làng, nhưng hằng ngày cũng phải hai lần tất tưởi đi đò vượt sông Mã, sang xã Cẩm Giang dạy bọn trẻ. Hai ông, bà tuổi đều đã gần lục tuần cả nhưng vẫn thường ăn chung mỗi ngày một bữa cơm chiều. Hai người con của ông bà hiện nay đều đi học và làm ăn xa, chưa ai xây dựng gia đình. Ông dí dỏm: "Bà ấy nhà tôi cũng đang cố gắng chờ tôi hai năm nữa thì cùng về hưu luôn. Chắc lúc đó, chúng tôi mới có điều kiện ăn chung với nhau ngày hai bữa".
"Hóa giải" những đau thương
Trong lúc đang trò chuyện, bỗng bác sĩ Phụng như sực nhớ ra điều gì, ông đề nghị chúng tôi cùng đi thăm bệnh nhân vừa nói chuyện. Khi xuống phòng bệnh nhân, hỏi ra mới hay hôm ấy có một đoàn công tác từ thiện từ Hà Nội về thăm bệnh nhân, nên ông xuống nhắc nhở các phòng dọn dẹp nhà cửa, chăn màn cho ngăn nắp, sạch sẽ.
Chúng tôi được dẫn vào thăm "gia đình" bệnh nhân cao tuổi nhất ở làng phong là Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Nhung, năm nay đã 89 tuổi, bị phong "ăn" cụt mất một chân. Mẹ Nhung về điều trị ở trại phong này từ ngày mới thành lập làng năm 1969. Quê mẹ Nhung ở xã Đông Nam, huyện Đông Sơn, có con trai độc nhất đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chính mẹ đã chọn làng phong để sống những tháng ngày cuối đời của mình. Tuy tuổi cao nhưng mẹ Nhung vẫn còn rất minh mẫn, mẹ kể: "Bốn chục năm sống ở đây, mẹ ơn Đảng, ơn Chính phủ nhiều lắm, các bác sĩ chăm sóc mẹ rất tốt, nhất là bác Phụng đây, nếu không có những người như bác ấy, chắc mẹ cũng chả còn đến bây giờ". Bác sĩ Phụng cho hay, ở làng phong này, nhiều trường hợp ông phải đề xuất và bàn bạc với khoa điều trị đến động viên bệnh nhân "ghép đôi" lại với nhau để có điều kiện đỡ đần nhau trong cuộc sống. Trường hợp của mẹ Nhung là một ví dụ. Khi mẹ Nhung về đây sống và điều trị, các y bác sĩ ở đây động viên mẹ "góp gạo" với cụ ông Hoàng Văn Vòng, quê ở xã Quảng Hợp, huyện Quảng Xương, cũng là một người mắc bệnh phong để giúp đỡ lẫn nhau. Vậy là, hai cụ quyết định "già nhân ngãi" với nhau. Các con của cụ Vòng cũng đồng tình với phương án ấy. Thế nên, bây giờ "vợ chồng" cụ Vòng và mẹ Nhung có tới năm người con và cháu chắt đều mạnh khỏe, không hề có biểu hiện của bệnh phong.
Ý tưởng ghép đôi thành "gia đình" cho bệnh nhân của bác sĩ Phụng và những cộng sự của ông ở làng phong lại trở thành một "chiếc chìa khóa" để mở cánh cửa xóa bỏ sự kì thị, mặc cảm của người đời. Bởi trước kia, không chỉ những người mang bệnh phong mà cả người thân của họ cũng rất khó xây dựng hạnh phúc gia đình với những người bình thường. Thế nhưng giờ đây, sự kì thị đó dường như đã biến mất. Ở làng Tô, nhiều con em của bệnh nhân đã lấy chồng, lấy vợ và hạnh phúc đã đơm hoa trên mảnh đất heo hút xưa. Bệnh nhân Hà Văn Hiệp có con gái Hà Thị Nga (không lây bệnh) cũng đã lấy chồng ở xã Cẩm Phong; hay anh Vũ Văn Oánh - con của bệnh nhân Hoàng Thị Thoả, kết hôn với chị Phạm Thị Thu ở làng Tô, rồi vợ chồng đều chuyển vào sinh sống ở làng phong. Ở làng phong bây giờ, tất cả các em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, nhiều em đã thi đỗ cao đẳng, trung cấp hoặc đi làm việc như Trịnh Thị Thuỷ, con bệnh nhân Trịnh Văn Nở. Mẹ Thủy mất từ hồi Thuỷ mới học lớp 7, em được trung tâm nuôi nấng, cấp tiền ăn học. Nhiều em như Trịnh Hữu Tuấn (27 tuổi), hiện đang làm việc tại KCN Dung Quất (Quảng Ngãi); Trịnh Văn Ngọc (22 tuổi), tốt nghiệp Trường Trung cấp Cơ khí Hà Nội và đã có việc làm ổn định. Bệnh nhân Mai Văn Mùi hào hứng tâm sự: "Trước đây, các cháu là con của bệnh nhân phong mặc cảm lắm, nhưng bây giờ, mọi người hiểu rõ căn bệnh này nên cũng không còn kì thị đối với các cháu nữa. Đó là điều mà chúng tôi vui lắm, mừng lắm. Vì nếu cứ như trước đây, có lẽ bậc làm cha mẹ như chúng tôi khi quy tiên rồi vẫn còn để lại phận tủi hờn cho con cháu, chú ạ!".
Chia tay bác sĩ Phụng, trên đường trở về với cuộc sống ồn ào, náo nhiệt ở chốn thị thành, trong đầu tôi vẫn hiện về cảnh làng phong với 25 hộ gia đình là những bệnh nhân điều trị lâu dài, đã có nhiều người khỏi bệnh xin ở lại đây sinh sống. Tôi nhớ đến cái nắm tay thật chặt và lời tâm sự của ông rằng: "Làng phong Cẩm Bình bây giờ không còn hoang vắng, buồn tủi như trước kia nữa. Cái thung lũng đau thương năm nào giờ cũng không còn đau thương nữa. Nhưng ở đây vẫn rất cần hỗ trợ để những con người vốn chịu nhiều thiệt thòi có thêm cơ hội vươn lên trong cuộc sống các cậu ạ!".
Thế Lượng