Tôi sinh ra ở Hà Nội, vùng đồng bằng không có ý niệm rõ rệt về ngã nước. Trẻ em bây giờ cũng ít biết ngã nước nghĩa là sốt rét. Thuở nhỏ, đôi lần thấy người ở "mạn ngược" về, gầy gò mặt bủng da chì thì chỉ biết lơ mơ là họ sốt rét.
Xưa các cụ ta quan niệm sốt rét là do ngã nước, uống phải nước độc vùng cao nên mắc bệnh. Vì vậy, người Kinh rất sợ miền thượng du là nơi "ma thiêng nước độc".
Bản thân tôi, mãi đến đầu những năm 1950 trong chiến khu Việt Bắc thời kỳ chống Pháp mới được nếm mùi ngã nước. Tôi nhớ có lần sốt nặng quá, nằm trên tấm tre đan phải nhờ hai tù binh da đen khiêng đi, trèo đèo lội suối đưa đến trạm quân y. Nhớ lại những cơn sốt rét, run nẩy người như bật lò xo, tiếp theo cơn nóng muốn cởi hết quần áo, rồi mồ hôi tuôn ra như suối. Thời đó, thuốc quinine rất hiếm, phải mài ra pha loãng mà uống. Trong số chiến sĩ Tây tiến:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……Áo bào thay chiếu anh về đất (Quang Dũng) không ít người chết vì sốt rét ác tính.
Trong cuốn Lịch sử y học (Paris 1998), hai bác sĩ C.Chastel và A. Cénac liệt sốt rét vào loại 9 bệnh "tai họa của nhân loại". Hai tác giả cho biết sốt rét đã ảnh hưởng đến lịch sử nền văn minh nhân loại thế nào, thay đổi bộ mặt thế giới ra sao. Vào khoảng năm 1820, người ta đã chế ra quinine để chữa sốt rét, khiến nó đồng hành với chủ nghĩa thực dân xâm nhập nước ta. Nếu không có nó thì người châu Âu khó lòng đi xâm chiếm và trụ lại ở thuộc địa được, vì không thể sống nổi với căn bệnh sốt rét.
Alexandre Đại đế Hy Lạp từ Ấn Độ về, chết vì sốt rét nên chấm hết sự nghiệp chinh phục. Đội quân La Mã đi chiếm đất ở châu Phi và các nơi khác bị sốt rét, gieo rắc bệnh khắp Đế chế và cả châu Âu. Các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam đều dính đến sốt rét.
Xưa ở châu Âu đã biết sốt rét ở các vùng đầm lầy có nước tù đọng, tuy chưa biết là do muỗi ở đó sinh ra. Vì vậy, gọi sốt rét là bệnh của đầm lầy. Tiếng Latinh palus, paludis (đầm lầy) đã sinh ra từ tiếng Pháp paludisme, để chỉ bệnh sốt rét, tiếng Đức là sumpfieber (sốt đầm lầy), tiếng Ý malaria (khí độc).
Để chữa được sốt rét, phải phát hiện ra thuốc, ký sinh trùng và yếu tố trung gian truyền bệnh. Người da đỏ từ lâu đã biết quinquina, vỏ một số loại cây nhiệt đới chữa các loại sốt rét rất hiệu nghiệm. Đến thế kỷ 17, các tu sĩ dòng Tên phổ biến nó, chữa được cả sốt rét. Mãi đến đầu thế kỷ 19, mới chiết xuất được tinh chất quinine trong vỏ quinquina, cho đến nay vẫn là thuốc chủ yếu chống sốt rét.
Năm 1880, bác sĩ quân y Pháp Laveran (giải Nobel 1907) tìm ra vi trùng sốt rét (Hématozuaire = huyết trùng, phá hủy hồng cầu).
Năm 1897, bác sĩ người Anh Ross ở Ấn Độ chứng minh được yếu tố trung gian gieo rắc bệnh là loài muỗi anophen mà nạn nhân là người chứ không phải loài vật. Trong loại muỗi này, con đực hấp thụ chất nước ngọt, thì con cái cần protein để nở trứng nên mới hút máu người và hút vào ban đêm. Phòng bệnh cần hủy các ổ muỗi và ngủ màn có tẩm chất khử trùng.
Chuyển từ rừng núi về Hà Nội, tôi và các bạn bè bộ đội khỏi hẳn sốt rét. Chống sốt rét, ta và thế giới thành công nhiều nhất là sau bốn chiến dịch (1948-1995) toàn cầu. Vậy mà đến ngày nay, sốt rét vẫn là bệnh tai họa cho các nước nghèo. Bệnh có nguy cơ tái phát lan mạnh do muỗi đề kháng lại thuốc diệt muỗi, làm mất hiệu nghiệm. Số người bệnh ở Châu Phi là 212 triệu người (chết mỗi năm 800.000 người); Châu Mỹ chết 36.000 người...
Tình hình sốt rét của ta tương đối thấp, nhưng vẫn cần báo động.
Người xây dựng thành công ngành chống sốt rét Việt Nam là bác sĩ Đặng Văn Ngữ (1910- 1967) đã hy sinh ở mặt trận miền Nam.
Rừng, núi, đầm lầy luôn là nơi muỗi mang mầm bệnh sốt rét cư trú.
Hữu Ngọc