Đối diện với Anh hùng Lao động Phạm Gia Khải người ta sẽ tự hỏi điều gì khiến ông GS vào tuổi "thất thập cổ lai hy" vẫn tràn đầy khí thế như "thời thanh niên sôi nổi"? Phóng viên báo Sức khỏe & Đời sống đã trò chuyện cùng ông. Có những niềm vinh dự đặc biệt trong đời đến với ông nhưng trong ông cũng vẫn còn đó bao trăn trở...
Năm mới đã sang nhưng không thể không nói đến niềm vinh dự lớn lao mà Nhà nước trao tặng ông năm 2008: Danh hiệu Anh hùng Lao động. GS nghĩ gì về phần thưởng cao quý này?
GS. Phạm Gia Khải: Danh hiệu Anh hùng Lao động mang vinh quang cho cá nhân tôi nhưng một mình tôi không thể làm nên điều đó. Những người thầy, đồng nghiệp, gia đình, học trò của tôi và cả những người bệnh là những người giúp tôi có được niềm vinh dự lớn lao này. Tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến họ. Dù ở trong cương vị nào tôi đều đặc biệt tôn trọng đồng nghiệp và học trò. Tôi luôn mong mỏi học trò giỏi hơn mình, cố gắng truyền đạt cho họ nhiều nhất những kiến thức mà tôi biết.
Vì điều đó mà ông tin tưởng học trò đến mức trao cả tính mạng của mình cho họ?
GS. Phạm Gia Khải: Năm 2006 tôi bị đau thắt ngực, phải chỉ định đặt stent để nong mạch vành. Khi đó có nhiều bạn bè ở nước ngoài đề nghị tôi sang đó để họ điều trị nhưng tôi từ chối. Hàng nghìn ca đặt stent nong mạch vành đã thực hiện thành công ở Viện Tim mạch bởi những người học trò của tôi thì cớ sao tôi phải sang nước ngoài điều trị. Nói tin tưởng thôi thì chưa đủ mà thật sự tôi rất tự hào về họ.
Bởi ông là người khởi đầu "cuộc cách mạng" chữa bệnh tim mạch ở Việt Nam còn những người học trò đang phát triển nhanh chóng những kỹ thuật hiện đại?
GS. Phạm Gia Khải: Tháng giêng năm 1973, lần đầu tiên tôi ra nước ngoài, nơi tôi đến là Hungary. Đề tài tôi theo học chuyên về mạch máu nhưng kỹ thuật siêu âm tim đã cuốn hút tôi một cách kỳ lạ. Tôi đã cố gắng học hỏi kỹ thuật này bằng tất cả say mê và khát vọng sẽ mang về bằng được kỹ thuật này phục vụ người bệnh. Bởi đây sẽ là khởi nguồn cho sự thay đổi có tính cách mạng của chuyên ngành tim mạch Việt Nam, có chẩn đoán đúng mới điều trị đúng. Đầu những năm 1990, tim mạch can thiệp trên thế giới đã bắt đầu phát triển và chiếm một vị trí quan trọng trong điều trị các bệnh lý tim mạch như hẹp hở van tim, tắc nghẽn động mạch vành... nhưng đây là một lĩnh vực khó, không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn vững vàng mà còn cả sự khéo léo, nhạy cảm trong thao tác. Tôi rất mừng vì đã chọn đúng người để gửi gắm mong mỏi của mình, họ như những cây để phát triển thành rừng. Chỉ trong vòng hơn 10 năm (từ 1997) tim mạch can thiệp Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, và đang là một trong những kỹ thuật y tế cao thành công nhất ở Việt Nam.
Từ khi còn là một bác sĩ mới ra trường đến khi trở thành Anh hùng Lao động, ông nhận thấy sự thay đổi của y học Việt Nam như thế nào? Điều gì khiến ông đang thật sự trăn trở ở các bác sĩ hiện nay?
GS. Phạm Gia Khải: Tôi tốt nghiệp bác sĩ khi cuộc chiến tranh chống Mỹ rất ác liệt, trái tim tuổi 20 của tôi cũng sôi sục lý tưởng ngay trong công việc của mình. Lúc đó mọi thứ đều rất thiếu thốn, đêm đêm lọ mọ trực tại Bệnh viện Bạch Mai, tôi say sưa ghi lại và phân tích từng nhịp tim khác nhau của người bệnh, cũng như cơ chế hoạt động của mạch máu. Kết quả là tôi biết được cơ chế huyết động của từng hoạt động đó trước cả khi tôi được học. Sự cần mẫn và đam mê khoa học đã giúp cho những thầy thuốc thế hệ của tôi khắc phục được nhiều thiếu thốn của phương tiện chẩn đoán lúc bấy giờ. Năm 37 tuổi, tôi ra nước ngoài tu nghiệp, sự hiện đại của y học các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bấy giờ làm tôi choáng ngợp vì họ vượt xa mình nhiều quá, trong tôi lúc đó chỉ có một quyết tâm là lĩnh hội nhiều nhất những kỹ thuật và kiến thức có thể mang về phục vụ Tổ quốc. Kể cả đến những năm 1980, 1990 khi tham dự những hội nghị y học quốc tế, có nhiều điều người ta nói mà chúng tôi chẳng hiểu họ nói gì vì mình đâu có biết. Muốn thay đổi được điều này chẳng có gì khác là phải học, rồi như người bị điếc vì dáy tai quá nhiều, mỗi ngày lấy ra một ít đến khi nghe được bình thường. Bây giờ thì chúng ta không chỉ nghe và hiểu họ nói và còn mang tiếng nói của mình đến với họ.
Điều tôi vẫn thấy tiếc là trình độ ngoại ngữ của bác sĩ Việt Nam còn rất kém. Muốn trở thành một bác sĩ giỏi phải có lâm sàng vững vàng, ngoại ngữ giỏi và khai thác tốt công nghệ tin học.
Trong vị trí của một học trò thì những người thầy đã ảnh hưởng đến ông như thế nào?
GS. Phạm Gia Khải: Tôi may mắn được GS. Đặng Văn Chung dành nhiều tình cảm và tâm huyết truyền nghề, tôi học được ở thầy không chỉ kiến thức mà còn nhân cách của một người thầy thuốc, thầy giáo, người làm khoa học. Nhưng người cho tôi phương pháp tư duy khoa học biện chứng trong công việc và cuộc sống lại chính là thầy giáo dạy triết Thẩm Trọng Tào. Thầy nói muốn đi đến được mục tiêu của mình phải xác định trong mọi vấn đề đâu là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, xác định đúng mới giải quyết đúng và đi đến đích.
Vậy còn trong gia đình, cha mẹ đã cho ông triết lý gì trong cuộc sống?
GS. Phạm Gia Khải: Bố tôi là người trí thức đi theo cách mạng, sắt son với lý tưởng. ông là người truyền cho tôi ý chí với cuộc sống, không khuất phục trước khó khăn và luôn phải có tấm lòng trung thực. Nhà tôi có 8 anh chị em, chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn là nhờ mẹ, một phụ nữ Hà Nội cổ điển, gia giáo. Đối với bà điều quan trọng nhất gửi gắm ở các con là làm việc gì cũng để lại chữ "Đức", tôi bước vào đời với những tình yêu thương vô bờ bến ấy.
Ông luôn nói rằng mình học hỏi ở tất cả mọi người, kể cả người bệnh?
GS. Phạm Gia Khải: Bởi vì "Không có ai tẻ nhạt ở trên đời, mỗi số phận chứa một điều cao cả". Tôi là thầy của nhiều bác sĩ nhưng tôi có dạy họ được tất cả đâu, bản thân họ có rất nhiều điều mà tôi phải học tập. Người bệnh làm tôi ấn tượng và học được từ ông ấy rất nhiều là một người dân lao động bình thường ở Bát Đàn (Hà Nội). Lúc đó tôi mới ra trường, 24 tuổi, GS. Đặng Văn Chung bảo tôi chẩn đoán một người bệnh động kinh nhưng béo kinh khủng, hỏi ra mới biết là mỗi khi sắp lên cơn thì ông ấy ăn rất nhiều bánh ngọt. Thầy Chung gợi ý ông này có "vấn đề" về tụy. Không có phương tiện siêu âm, xét nghiệm gì hết, chỉ với khả năng lâm sàng tôi chẩn đoán đây là một bệnh nhân u tụy tạng, kết luận của tôi được GS. Chung và mọi người ủng hộ. Từ kết quả này, bệnh nhân được GS. Tôn Thất Tùng phẫu thuật và khỏi bệnh. Tiếp xúc với người bệnh ít học và rất nghèo này tôi thấy ông ấy thú vị vô cùng, không phải là kiến thức bác học uyên thâm cao siêu mà là thái độ rất đúng mực trong cư xử với mọi người và kiến thức cuộc sống sâu rộng, cái gì ông ấy làm cũng rất khéo. Tôi "ngộ" ra rằng bằng cấp không phải thứ quyết định để trở thành một con người đàng hoàng trong đời, nó chỉ là một kênh tham khảo.
Điều gì khiến ông ở tuổi bảy mươi mà vẫn như "thời thanh niên sôi nổi"?
GS. Phạm Gia Khải: Thời gian làm tóc tôi bạc trắng nhưng không thể "lão hóa" khát vọng và cảm xúc trong tôi. Tuổi tác chỉ là những con số, còn tình yêu cuộc sống mới là mãi mãi.
Trên 70 tuổi ông mới về hưu có đặc biệt quá không? Có điều gì làm ông cảm thấy tiếc nuối khi những chuyên gia như ông về hưu?
GS. Phạm Gia Khải: Trường hợp của tôi đúng là một ngoại lệ ở Việt Nam nhưng đối với nước ngoài thì điều đó rất bình thường. Thời gian làm việc hằng ngày của tôi sau nghỉ hưu không có gì thay đổi, khi nào tim tôi còn đập thì tôi vẫn còn muốn cống hiến. Tôi có một ông bạn ở Mỹ đã 86 tuổi nhưng vẫn làm việc bình thường, đó là một chuyên gia phẫu thuật lồng ngực. Tôi đồng ý những người có tuổi cần nghỉ công việc quản lý nhưng nên để cho họ phát huy tiếp khả năng chuyên môn của mình. Những chuyên gia ở nước ta không nhiều nhưng khi nghỉ hưu họ không được trọng dụng khả năng nữa, đó là sự lãng phí chất xám. Nhiều người đi làm phòng khám tư nhân nhưng đó chỉ là cách giải khuây tuổi già. Họ không thể phát huy khả năng khoa học ở phòng khám tư nhân được, vì tư nhân đặt lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, chỉ có bệnh viện Nhà nước mới có được tiêu chí “người bệnh là trung tâm".