Đỉnh cao của tâm linh nhân loại

03-06-2012 09:19 | Văn hóa – Giải trí
google news

"Có lẽ thế hệ nào cũng cho là mình đã tới bước ngoặt của lịch sử, những vấn đề của mình dường như không giải quyết được, còn tương lai thì ngày một mơ hồ thêm!”.

(SKDS) - "Có lẽ thế hệ nào cũng cho là mình đã tới bước ngoặt của lịch sử, những vấn đề của mình dường như không giải quyết được, còn tương lai thì ngày một mơ hồ thêm!”. (The great transformation (Biến chuyển vĩ đại) xuất bản ở Mỹ 2007). Nhận định này của nữ triết gia Anh nổi tiếng về nghiên cứu tôn giáo Karen Armstrong hẳn cũng có phần đúng với các thế hệ và mọi quốc gia vào đầu thế kỷ 21.

Thế kỷ thứ 20 chứng kiến sự bùng nổ đến đỉnh của bạo lực trong lịch sử nhân loại đi đôi với tiến bộ kinh tế và khoa học cũng vô song. Bom nguyên tử ở Hirôsima, sự hủy hoại môi trường, chiến tranh liên miên chết hàng trăm triệu người. Tưởng sau chiến tranh lạnh sẽ có hòa bình lâu dài, ai ngờ bạo lực và chiến tranh vẫn không ngừng vào đầu thế kỷ 21.

Các cuộc khủng hoảng của con người đều bắt nguồn sâu xa từ tinh thần, tâm linh. (Tâm linh hiểu theo nghĩa rộng là tri thức, tâm lý, triết học chứ không riêng gì tôn giáo và tín ngưỡng). Nếu con người hiện đại không tìm được một quan niệm tâm linh có khả năng điều chỉnh tiến bộ khoa học kỹ thuật để bảo vệ cái thiện thì nhân loại sẽ tự hủy diệt sự sống của hành tinh. Tìm nguồn tâm linh tốt lành, nhân văn ấy từ đâu? Từ những triết gia và nhà tiên tri sống trong 5 thế kỷ từ 680 - 200 trước CN: Phật Thích Ca (Ấn Độ), Socrate (Hy Lạp), Khổng Tử (Trung Hoa), Jeremiah (Do Thái)… Đó là ý kiến của bà Karen Armstrong trong tác phẩm trên. Bà theo quan điểm của triết gia hiện sinh Đức Jaspers (1883-1969), thời kỳ 5 thế kỷ ấy (gọi là thời kỳ Trục = Axial Age) đã mang lại cho loài người một sự biến chuyển về tâm linh cơ bản, là đỉnh cao tư duy của nhân loại. Mãi về sau, đạo Do Thái, đạo Thiên Chúa và đạo Hồi lấy lại và cải biến những tư tưởng của thời kỳ trên.

Trong thời kỳ “Biến chuyển vĩ đại”, từ 4 địa điểm xa nhau: Ấn Độ, Hy Lạp, Trung Hoa, Israel, những thiên tài đi tiên phong trong lĩnh vực tâm linh và triết học đã mang lại cho nhân loại những thể nghiệm mới.

Nhiều người trong số đó âm thầm sáng tạo không để lại tên tuổi, một số là những ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta đến ngày nay, khi loài người bước vào một thời kỳ biến chuyển lớn ở phương Tây hiện đại mang tính khoa học và kỹ thuật.

Ta hãy điểm qua một số gương mặt tiêu biểu của thời đỉnh cao tâm linh nhân loại:

Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (560-480 trước CN) sinh ở Nêpan (phía Bắc Ấn Độ) đề ra vũ trụ quan nhân duyên, nhân sinh quan tứ diệu đế, chúng sinh chìm trong bể khổ vì không biết cái vô ngã (không có cái tôi, cái cá thể), chạy theo dục vọng mà sinh ra luân hồi sinh tử. Niết bàn là trạng thái không còn bản thân nữa.

Socrate (470-399 trước CN), triết gia Hy Lạp dạy đạo đức bằng phương pháp tranh luận dân chủ để tìm ra chân lý. Nguồn gốc đức hạnh là tự biết mình, nhận ra mình sai thì sẽ không làm sai, phương pháp của ông là gốc của phép biện chứng.

Khổng Tử (thế kỷ VI-V trước CN) đề ra một học thuyết thực tế về đạo đức và chính trị nhằm xây dựng hài hoà xã hội qua tư tưởng và ứng xử (dựa trên ngũ luân), có phần nhân bản tích cực (nhân nghĩa, tu thân, trung dung).

Lão Tử (thế kỷ V-IV trước CN) đề ra một học thuyết hầu như đối lập với Khổng Tử. Học thuyết Đạo giải thích sự hình thành vũ trụ, vạn vật do vận động của khí theo con đường (Đạo) tự nhiên không phụ thuộc siêu tự nhiên (trái với Thiên mệnh của Khổng Tử). Thuyết vô vi chủ trương không đấu tranh mà phải thích ứng với quy luật tự nhiên. Hegel cho tư tưởng Khổng học nghèo hơn Lão học.

Jeremiah (680-580 trước CN) là vị tiên tri Do Thái đã đề ra đường lối xây dựng đạo Do Thái Judaism chống lại tôn giáo hình thức.

Bà Karen Armstrong nghiên cứu thời Trục tâm linh của nhân loại và đặt câu hỏi: “Tại sao những người hiền thời Trục ấy sống trong những hoàn cảnh rất khác nhau lại thích ứng với tình trạng của chúng ta ngày nay? Tại sao chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của Khổng Tử hay đức Phật?”.

Câu trả lời là: “Chúng ta đang cần tạo ra một niềm tin sáng tạo hơn, phản ánh được hiện thực của thế giới chúng ta. Nhưng thực tế là chúng ta chưa bao giờ vượt được những thấu hiểu của thời Trục.  Khi có khủng hoảng tâm linh và xã hội, con người phải ngoảnh lại thời ấy để tìm lối đi”.

Trước thời Trục, hoạt động tâm linh, tôn giáo và tín ngưỡng đặt ưu tiên vào hình thức, nghi lễ và tế vật. Những người hiền thời Trục vẫn giữ lễ nghi nhưng với một nội dung đạo lý. Con đường (Đạo) cảm thông với Thần thánh, Thượng đế hay lên Niết bàn là sống từ thiện, hành động từ bi sẽ giúp cho tâm linh siêu việt.

“Chúng ta đang sống trong một thời buổi lo âu và đau khổ. Những người hiền thời Trục dạy chúng ta phải bước ngang tầm với đau khổ, điều không tránh được trong cuộc sống. Chỉ khi ta chấp nhận được cái đau khổ của ta thì ta mới thông cảm được với người khác. Ngày nay, chúng ta sống trong xã hội nhiều đau khổ hơn những thế hệ trước: chiến tranh, tai ương, chết đói, nghèo nàn, bệnh tật… Cuộc sống quả là bể khổ!”. Muốn yên thân, ta dễ có tư tưởng làm ngơ với cái khổ đau của thiên hạ. Các người hiền thời Trục khuyên ta phải để khổ đau thấm nhuần ý thức của ta thì mới giải thoát tâm linh được. Đừng để đau khổ của ta biến thành bạo lực, hận thù mà thành hành động thiện. Mạnh Tử dạy ta hãy tìm thiện tâm đã mất, đó là lòng từ thiện, gốc của những truyền thống nhân bản.  

  Hữu Ngọc


Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn