Hồi mới thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam (VN), vị trí Chủ tịch Hội là ngôi vị dành cho "Anh cả làng nhạc" Nguyễn Xuân Khoát. Năm ấy, ông Khoát 47 tuổi. Sau ông, Tổng Thư ký Đỗ Nhuận mới ở tuổi 35. Cái chuyện "trẻ hóa" lãnh đạo hội cứ thế trôi qua gần nửa thế kỷ, mãi tới năm 2005, tại Đại hội lần thứ 7 Hội Nhạc sĩ VN, mới lặp lại ở khóa VII, khóa đương nhiệm (2005-2010) vị Chủ tịch Hội là nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân 49 tuổi.
Ngày ấy, sau giải phóng Thủ đô được 2 năm, vợ chồng nhạc sĩ Đỗ Nhuận vui mừng chào đón sự ra đời của cậu con trai cả - công dân thứ ba trong căn buồng nhỏ ở chung cư Văn nghệ sĩ số 65 Nguyễn Thái Học. Khi đó, có lẽ vì đang tại ngũ, nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã đặt cho cậu con trai đầu lòng cái tên là Đỗ Hồng Quân. Năm Quân lên 4 tuổi thì bố Đỗ Nhuận đi tu nghiệp tại Nhạc viện Tchaikovsky (Liên Xô cũ). Đến năm Quân lên 8 tuổi thì bố Đỗ Nhuận đã trở về. Sau những gì được thân phụ truyền dạy trong nhà, từ năm 8 tuổi, Đỗ Hồng Quân đã trở thành học trò piano của nghệ sĩ Thái Thị Liên (mẹ của NSND Đặng Thái Sơn). Những năm học trường nhạc của Quân là những năm trường sơ tán ở Xuân Phú - Bắc Giang. Nhiều năm, bà Liên vừa dạy Đỗ Hồng Quân, vừa dạy Đặng Thái Sơn dưới ánh đèn dầu tù mù của vùng quê trung du sỏi đá. Khi học lên trung cấp piano và sáng tác, thì thiên hướng của hai học trò cưng đã có khác biệt. Đặng Thái Sơn (sinh 1958) nghiêng về biểu diễn. Còn Đỗ Hồng Quân thì lại nghiêng về sáng tác. Giai điệu đầu đời của Đỗ Hồng Quân là giai điệu phổ thơ của "thần đồng" Trần Đăng Khoa - bài Tre ở nhịp 3/8 sau đổi thành 3/4. Ở bài tập nhỏ bé đó, đã phát lộ ra một thiên hướng khí nhạc cho nhà soạn nhạc Đỗ Hồng Quân sau này. Sau ngày thống nhất đất nước, khi cả nước đang tưng bừng mở ngày hội lớn thì chàng thanh niên Đỗ Hồng Quân ở tuổi tròn đôi mươi, đã chia tay bạn bè tại quán bánh tôm Hồ Tây để đi tu nghiệp tại Liên Xô (cũ). Quân lại vào học đúng nhạc viện mà người cha thân yêu của mình đã từng "tu nghiệp". Ở Nhạc viện Tchaikovsky, Đỗ Hồng Quân đã học sáng tác dưới sự hướng dẫn của giáo sư A.Leman từ 1976 - 1981. Từ giai điệu đầu đời, được sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hội Nguyễn Xuân Khoát đến năm 25 tuổi, Đỗ Hồng Quân đã tốt nghiệp bằng đỏ khoa sáng tác hệ đại học Nhạc viện T.chaikovsky với bản Concerto viết cho violon và Dàn nhạc giao hưởng. "Tiếng lành đồn xa", lúc đó những người yêu âm nhạc ở VN đã rất kỳ vọng về một thế hệ nhạc sĩ mới viết giao hưởng sau thế hệ các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Đàm Linh, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Văn Thương... Nhờ học lực tốt, Đỗ Hồng Quân đã là một trong không nhiều nhạc sĩ VN tu nghiệp ở Nhạc viện Tchaikovsky được đề nghị chuyển thẳng lên hệ nghiên cứu sinh (1982-1985). Lúc này ở nhà, bố Đỗ Nhuận cũng vừa hoàn thành xong phần giai điệu cho vở opera Nguyễn Trãi ở Đông Quan từ kịch của Nguyễn Đình Thi - tác phẩm coi như đỉnh cao trong cuộc đời sáng tạo của ông ở tuổi lục tuần. Điều đó càng thôi thúc Đỗ Hồng Quân "dùi mài kinh sử" để có thể theo kịp bước hành trình của người cha thân yêu. Suốt 3 năm ở trường, Đỗ Hồng Quân đã miệt mài hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh là bậc học cao nhất về chuyên ngành sáng tác, đồng thời theo học lớp chỉ huy dàn nhạc giao hưởng với giáo sư L.Nikolaev. Kiến thức nhận được ở khóa học này đã cho Quân một bản lĩnh vững vàng, tính quyết đoán trong cả học thuật cũng như thẩm định. Có lần, gần đây, Đỗ Hồng Quân được mời sang chỉ huy một dàn kèn trong chương trình hòa tấu ở một thành phố của Đức. Do chuyến bay hạ cánh muộn, Quân tới thành phố buổi trưa mà buổi tối đã trình diễn, chỉ trong một buổi chiều, Quân đã hoàn thành xong tổng phổ dành cho hơn 100 cây kèn khác nhau để kịp chỉ huy trình diễn vào buổi tối. Có được tầm vóc chuyên môn như thế ở làng nhạc VN đâu có dễ. Ngay trong khi tu nghiệp, Quân đã tốt nghiệp xuất sắc bằng bản Rhapsody VN do Dàn nhạc giao hưởng xưởng Mosfiml trình diễn và đoạt giải nhì cuộc thi sáng tác của các nhạc sĩ Liên Xô cũ năm 1985. Sử dụng Rhapsody, một thể trì âm nhạc do J.List - nhà soạn nhạc người Hungari sáng tạo ra từ một hình thức diễn tấu thơ Rhap sodic ở Hy Lạp từ thời Homere - Đỗ Hồng Quân đã thực sự tung tăng trong cái hình thức âm nhạc khá tự do trên sự thay đổi những đoạn tương phản rõ rệt giữa trữ tình và anh hùng ca, bi kịch và niềm hân hoan. Những chất liệu dân tộc từ tiếng gõ mõ đến giai điệu Mông Tây Bắc đều được Quân truyền vào tác phẩm trên một số tư duy dường như muốn rút ra một triết lý sâu sắc trong một chiến tranh chống Pháp mà người cha Đỗ Nhuận đã trải qua, đã đắm chìm từ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Về nước cũng như cha thời trước, Quân đã lao vào nhiều công việc âm nhạc với tâm trạng vừa nhọc mệt, vừa sung sướng. Âm nhạc cho vở ballet Hồng hoang đã được viết ra như vậy. Để thành công trong Hồng hoang, Quân đã "thử tay nghề" bằng ballet Sơn Tinh - Thủy Tinh thành công. Đối với Quân, tự bản thân loại hình nghệ thuật múa đã là âm nhạc không lời. Nhiệm vụ của nhạc sĩ là phải nắm bắt được cái "hồn" của ngôn ngữ hình dáng đó và làm cho nó "cất tiếng nói" qua âm nhạc. Múa là "da thịt" của âm nhạc. Quân đã tạo nên được gạch nối của nhạc múa từ thời ballet Xô Viết Nghệ Tĩnh, Chị Sứ... với hôm nay. Trong 3 năm "cày cục" với Hồng hoang, Quân vẫn viết những tiểu phẩm như Tát nước đêm trăng, Hứng dừa, Trống bỏi, Hằng Nga và Cuội... Trước đó là hàng loạt các tác phẩm khí nhạc như Tứ tấu đàn dây, Ngũ hành cho bộ gõ...
Theo gót cha trong opera, Đỗ Hồng Quân đã là tác giả âm nhạc cho hai kịch hát mới như Câu chuyện tình (Love Story) và Nàng Silami... Rồi từ Rhapsody Việt Nam, Quân đi tới Mở đất - một giao hưởng ấn tượng cho 300 năm Sài Gòn và mới đây là bài ca cho ASEAN.
Không chỉ kế thừa tinh hoa âm nhạc của cha, Đỗ Hồng Quân còn kế thừa cả tính hóm hỉnh của ông để biến thành cá tính trong diễn xuất khi "hóa thân" làm diễn viên điện ảnh. Quân đã tham gia làm diễn viên các phim khai thác chủ đề dân gian song song cùng việc tham gia viết nhạc cho nhiều phim truyện như Cỏ lau, Đất nước đứng lên, Trở về... và cũng đã nhận được rất nhiều giải thưởng của các liên hoan phim bên cạnh giải thưởng hàng năm của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Có lẽ trong các vai diễn viên, Quân vào vai chú Cuội là ấn tượng nhất. Cùng vợ là nữ diễn viên Chiều Xuân nổi tiếng, Quân đã đưa được chất hài hước với dáng điệu đặc biệt của mình vào điện ảnh. Có lần hai vợ chồng về quê giỗ nhạc sĩ Đỗ Nhuận, vừa đi tới đầu làng trẻ con đã xúm đông xúm đỏ, vừa chỉ trỏ vừa reo lên: "A! Chú Cuội! Chú Cuội ngồi gốc cây đa chúng mày ơi!... Còn kia là cái cô chửa hoang trong phim Mẹ chồng tôi ấy mà”. Hóa ra trong dân gian, Đỗ Hồng Quân - chú Cuội, được biết đến rộng rãi hơn một Đỗ Hồng Quân - nhà soạn nhạc.
Ở đời, có những cặp vợ chồng nghệ sĩ đã gây nên ấn tượng mạnh của một thời như Thế Lữ - Song Kim, Đào Mộng Long - Phạm Thị Thành, Đặng Đình Hưng - Thái Thị Liên... và cặp vợ chồng Đỗ Hồng Quân - Chiều Xuân cũng không ngoài vai vị đó. Bên cạnh những vai diễn nổi tiếng, Chiều Xuân còn mở một công ty biểu diễn nghệ thuật tư nhân với ước muốn phát triển nghệ thuật sân khấu VN.
Với Đỗ Hồng Quân, bên cạnh việc sáng tác theo gót người cha tầm vóc, anh còn nối nghiệp cả việc làm lãnh đạo làng nhạc. Ngay từ năm 1995, Quân đã trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ VN. Đến năm 2000, Quân trở thành Phó Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ và trở thành đại biểu Quốc hội. Đến năm 2005, ông nghị Đỗ Hồng Quân trở thành Chủ tịch Hội Nhạc sĩ VN. Anh còn kế thừa cha cả tính xuề xòa, dân dã trong quan hệ và trong ứng xử. Chẳng bao giờ thấy gương mặt “ra uy” của một ông "quan văn nghệ" ở Đỗ Hồng Quân. Tính cởi mở, chan hòa của anh khiến nhiều người dễ mến, dễ cảm thông.
Từ "ông cà rình" Đỗ Nhuận đến "thằng Cuội" Đỗ Hồng Quân là một cuộc dịch chuyển âm thầm của dòng chảy sinh học với những gen trội trong sự nghiệp âm nhạc từ đời cha sang đời con thật tự nhiên, thật thuần khiết. Câu ca dao "Con vua thì lại làm vua..." có tinh thần đúng với nghiệp truyền gen này. Nhờ thế mà năm 2007, người được giao phó tổ chức kỷ niệm Nửa thế kỷ Hội Nhạc sĩ VN từ thời Tổng Thư ký Đỗ Nhuận lại là cậu con trai Đỗ Hồng Quân - Chủ tịch hội đương nhiệm.
Nguyễn Thụy Kha