Cây sữa (hay hoa sữa) còn có tên mùa cua, mò cua, mồng cua. Tên khoa học là Alstonia Scholaris (L). Gọi là sữa vì toàn cây khi bị thương tổn thì nhựa chảy ra trắng như sữa.
Bộ phận làm thuốc: dùng vỏ thân phơi khô tán bột làm viên, ngâm rượu, nấu cao. Công hiệu đối với người tạng nhiệt, khô gầy, ăn kém không biết ngon... Ngoài ra còn dùng chữa tiêu chảy, phân sột sệt, thất thường hoặc kiết lỵ, thấp khớp dạng sưng - nóng - đỏ - đau, kinh nguyệt không đều, sốt rét.
Theo Đông y, vỏ cây sữa vị đắng, tính lạnh, có tính năng thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống, binh suyễn, chỉ khát, triệt ngược (sốt rét muỗi truyền) phát hãn, kiện vị.
Một số cách dùng
Bột vỏ cây sữa phơi khô hoặc sấy khô tán mịn: ngày uống 1 - 3g bột, uống với nước nóng hoặc sắc. Dùng cho người tạng nhiệt, ăn kém, người gầy.
Rượu vỏ cây sữa: vỏ cây sữa tán nhỏ 75g. Rượu 30 - 35o lượng 500ml. Ngâm 7 ngày lọc lấy nước trong rồi thêm rượu vào cho đủ 500ml. Ngày uống 40ml chia 2 lần, trước 2 bữa ăn chính.
Cao lỏng vỏ cây sữa: ngâm bột vỏ sữa với cồn 60o trong 7 ngày. Thỉnh thoảng lắc lọc và thêm cồn 60o cho bằng trọng lượng của vỏ, để cuối cùng cho 1kg vỏ sẽ được 1 lít cao lỏng. Mỗi ngày dùng 0,5 - 1,5g. Nhiều nhất chỉ uống mỗi lần 2g và mỗi ngày 6g.
Nước sắc đặc vỏ cây sữa dùng ngâm chữa đau răng, đắp lở loét.
Chữa bạch huyết cấp - kèm ho hen: vỏ sữa 15g, tử thảo 15g, ngũ vị tử 15g, anh túc xác 6g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Nôn mửa, thiếu máu do hóa trị liệu: lá sữa 20g sao vàng sắc uống.
Gần đây, trên nhiều đường phố trồng quá nhiều hoa sữa, nên mùi hoa sữa trở nên ngột ngạt, gây khó chịu, đặc biệt với những người có các loại bệnh dị ứng đường hô hấp (viêm mũi, xoang, phế quản, hen suyễn).
Ghi chú: Không nhầm với cây vú sữa cho quả vú sữa.