Khai thác và bảo tồn dược liệu dưới tán rừng: Hướng đi bền vững, tạo sinh kế cho người dân

11-09-2025 17:48 | Y học cổ truyền
google news

Những năm gần đây, trồng và bảo tồn dược liệu dưới tán rừng – theo mô hình thuận tự nhiên – đang được xem là hướng đi bền vững, vừa góp phần bảo vệ hệ sinh thái rừng, vừa mở ra sinh kế lâu dài cho đồng bào miền núi.

Dược liệu dưới tán rừng: Cách làm kinh tế xanh

Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên dược liệu phong phú, gắn liền với tri thức y học cổ truyền hàng nghìn năm. Theo thống kê của Viện Dược liệu (Bộ Y tế), hiện cả nước có hơn 5.000 loài thực vật và nấm lớn có giá trị làm thuốc, trong đó nhiều loài đặc hữu, quý hiếm.

Thực tế tại nhiều địa phương miền núi cho thấy, cây dược liệu đang dần thay thế một số cây công nghiệp ngắn ngày kém hiệu quả. Khác với mô hình trồng rừng lấy gỗ đơn thuần, trồng dược liệu dưới tán rừng giúp duy trì thảm thực vật tự nhiên, giữ đất, giữ nước và tạo thêm thu nhập ổn định.

Tại huyện Lâm Bình (Tuyên Quang), Công ty TNHH MTV Vườn rừng thảo dược Khai Tâm Lâm Bình đã chọn khôi nhung – loài cây bản địa, ưa bóng râm, nổi tiếng hỗ trợ điều trị bệnh dạ dày – để phát triển. Điểm đặc biệt của khôi nhung là có thể sinh trưởng tốt dưới tán rừng mà không cần phá bỏ cây gỗ lớn, nhờ đó duy trì tính cộng sinh với hệ sinh thái.

Khai thác và bảo tồn dược liệu dưới tán rừng: Hướng đi bền vững, tạo sinh kế cho người dân- Ảnh 1.

Ông Hoàng Quốc Thanh với cây khôi nhung trong chương trình trồng dược liệu dưới tán rừng

Ông Hoàng Quốc Thanh, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc công ty, cho biết: "Trồng dược liệu dưới tán rừng không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế mà còn mang ý nghĩa tái sinh hệ sinh thái rừng đa tầng, đa tán. Cây khôi nhung càng trồng trong bóng râm tự nhiên càng phát triển, đó là lý do chúng tôi lựa chọn."

Hiện đã có 6 hộ dân tham gia trồng thử nghiệm. Trong quý IV/2025, công ty dự kiến nhân giống khoảng 40.000 cây khôi nhung để trồng trên diện tích 12–15 ha. Đây là bước khởi đầu quan trọng hình thành vùng dược liệu bền vững tại địa phương.

Giá trị kinh tế vượt trội từ dược liệu dưới tán rừng

Theo tính toán, mỗi hecta trồng từ 5.000–10.000 cây khôi nhung, doanh thu hàng năm có thể đạt 60–120 triệu đồng. Trong khi đó, với cây keo – loại cây phổ biến ở miền núi phía Bắc – chu kỳ 5 năm mới thu hoạch một lần, doanh thu chỉ từ 50–70 triệu đồng/ha. So sánh này cho thấy trồng dược liệu không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn mà còn rút ngắn chu kỳ khai thác.

Điểm đáng chú ý là cây khôi nhung chỉ cần trồng một lần, có thể thu hái lá nhiều đợt trong năm, đến năm thứ ba có thể cắt cành làm giống mà không ảnh hưởng đến môi trường rừng. Mô hình này giúp bà con có nguồn thu đều đặn, ổn định trên 10 năm.

"Khôi nhung không chỉ tạo thu nhập trước mắt mà còn duy trì nguồn lợi lâu dài. Đây là hướng đi giúp bà con thoát nghèo bền vững, đồng thời góp phần giữ rừng tự nhiên" – ông Thanh nhấn mạnh.

Một tín hiệu tích cực là sản phẩm khôi nhung hiện đang rất "đắt hàng". Thương lái và doanh nghiệp dược liệu tìm đến tận vườn đặt mua, nhưng nguồn cung chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Điều này mở ra cơ hội xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất – chế biến – tiêu thụ, nâng cao giá trị cho sản phẩm dược liệu Việt Nam.

Khai thác và bảo tồn dược liệu dưới tán rừng: Hướng đi bền vững, tạo sinh kế cho người dân- Ảnh 2.

Khai thác và bảo tồn dược liệu dưới tán rừng: Hướng đi bền vững, tạo sinh kế cho người dân

Lợi ích kép: Giữ rừng – tăng thu nhập

Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng còn tạo ra giá trị môi trường to lớn. Với điều kiện khí hậu cực đoan, mưa lớn gây lũ quét, sạt lở, việc duy trì thảm dược liệu dưới tán rừng giúp giữ đất, chống xói mòn, điều hòa nguồn nước.

Theo các chuyên gia, trồng dược liệu dưới tán rừng giống như một mắt xích cộng sinh trong hệ sinh thái: cây dược liệu hút ẩm và giữ dinh dưỡng, cây gỗ lớn tạo bóng che, động vật hoang dã quay trở lại, từ đó phục hồi tính đa dạng sinh học.

Mô hình này còn giúp bảo tồn tri thức bản địa của đồng bào dân tộc thiểu số về sử dụng dược liệu. Nhiều địa phương đã kết hợp phát triển du lịch sinh thái – cộng đồng gắn với dược liệu, đưa du khách trải nghiệm hái thuốc, chế biến trà thảo dược, qua đó quảng bá thương hiệu dược liệu Việt Nam.

Cần quy hoạch và liên kết để phát triển bền vững

Tuy có nhiều lợi thế, song trồng dược liệu dưới tán rừng vẫn gặp khó khăn: quy mô nhỏ lẻ, thiếu vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ chưa ổn định. Để giải quyết, các chuyên gia nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc quy hoạch vùng trồng, ban hành chính sách khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật.

Một yếu tố then chốt là liên kết "4 nhà": Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp – Người dân. Sự hợp tác này sẽ chuẩn hóa quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng dược liệu, đồng thời mở rộng đầu ra thông qua hợp đồng bao tiêu và xuất khẩu.

Đặc biệt, cần gắn phát triển dược liệu với công nghệ hiện đại. Ứng dụng GIS để quy hoạch vùng trồng, blockchain để truy xuất nguồn gốc, công nghệ chiết tách và chế biến sâu để nâng cao giá trị sản phẩm. Khi đó, dược liệu dưới tán rừng không chỉ dừng lại ở việc bán thô mà còn trở thành sản phẩm cao cấp phục vụ y học và xuất khẩu.

Nhân rộng mô hình – Hướng tới mục tiêu phát triển xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và yêu cầu phát triển kinh tế xanh, mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng chính là "lối mở". Nó tạo sinh kế bền vững cho người dân miền núi, đồng thời góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, giữ rừng và bảo vệ môi trường.

Nếu được nhân rộng và đầu tư đúng hướng, đây có thể trở thành trụ cột trong chiến lược phát triển kinh tế miền núi, đưa dược liệu Việt Nam vươn xa, gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và khai thác.


Thu Hiền
Ý kiến của bạn