“Yêu khoa học cũng là yêu nước...”

10-05-2009 16:02 | Thời sự
google news

Sau năm 1945, Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên không chỉ là người đặt những viên gạch đầu tiên gây dựng nên Viện Mắt hột và ngành mắt Việt Nam mà ông còn tham gia hoạt động cách mạng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tin tưởng giao nhiều trọng trách khác.

 Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên
Sau năm 1945, Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên không chỉ là người đặt những viên gạch đầu tiên gây dựng nên Viện Mắt hột và ngành mắt Việt Nam mà ông còn tham gia hoạt động cách mạng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tin tưởng giao nhiều trọng trách khác. Vì thế, tên tuổi ông gắn với sự ra đời và phát triển ngành mắt Việt Nam. Ông là người thầy thuốc mẫu mực, đức độ và toàn năng. Lớp lớp thế hệ thầy thuốc nhãn khoa sau này luôn kính cẩn tôn vinh cố Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên và xem ông là "ông tổ" của ngành mắt Việt Nam.

Từ những năm 1938, bằng chuyên môn vượt trội và khả năng quản lý sắc sảo, Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên là người Việt Nam đầu tiên được giữ chức Viện trưởng Viện Mắt dưới thời Pháp thuộc. Cũng từ năm đó, ông đã nỗ lực "lái" Viện Mắt mà quân Pháp lập ra (vốn dĩ chỉ nhằm phục vụ quân đội Pháp) để phục vụ nhân dân mình.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho, ông cụ thân sinh Nguyễn Xuân Trị làm quan tri huyện ở Nghệ An nhưng có nghề bốc thuốc cứu người. Ông Nguyễn Xuân Nguyên sinh ra và lớn lên ở Bùi thôn, Quảng Xương, Thanh Hóa - một vùng đất nghèo khó bần hàn, nghèo đến nỗi đã đi vào ca dao thành ngữ "Xương bọc gia" (Xương là Quảng Xương, "gia" là huyện Tĩnh Gia - vùng đất nghèo xơ xác liền kề), ông sớm thấu hiểu và chứng kiến những kiếp người, những số phận, những khốn khó của người và dải đất miền Trung khắc nghiệt. Điều đó giúp ông sớm ý thức về sự may mắn có điều kiện học hành hơn chúng bạn, chia sẻ với đói nghèo và bệnh tật của nhân dân. Ông có 8 anh chị em thì có tới 5 người theo ngành y, ông là con trai trưởng trong gia đình.

Tháng 7/1935, chàng trai trẻ Nguyễn Xuân Nguyên bước sang tuổi 28, cầm trên tay tấm bằng cử nhân y khoa chuyên ngành nhãn khoa loại xuất sắc. Từ 1934 - 1937, bác sĩ Nguyên được giao phụ trách một phòng khám mắt. Ông Nguyên là bác sĩ giỏi và toàn năng, ham học hỏi. Tuy mới 31 tuổi nhưng bác sĩ Nguyên đã có tài tổ chức và giỏi chuyên môn, bạn bè đồng nghiệp mến phục, được Thanh tra thuộc địa và Giám đốc Nha y tế Bắc kỳ - Bác sĩ De Raymond khen ngợi. Bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên là người thông minh, rất say mê nghiên cứu khoa học, kiến thức của ông cơ bản, uyên bác và toàn diện. Lĩnh vực nào ông cũng có công trình nghiên cứu: từ nội khoa, ngoại khoa, sản khoa, giải phẫu học, nhân chủng học cho đến nhãn khoa - là ngành ông chuyên sâu và có nhiều cống hiến to lớn nhất. Chỉ tính riêng trong 10 năm từ 1935 -1945, bác sĩ Nguyên đã công bố 48 công trình nghiên cứu của mình trên các tạp chí trong và ngoài nước, trong đó có 21 công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều vấn đề trong nhãn khoa.

Từ 1940-1941, bác sĩ Nguyên được giao làm Trưởng khoa phẫu thuật của Bệnh viện Phủ Doãn. Từ 1942-1945 là Giám đốc Nhãn khoa lâm sàng Trường đại học Y khoa Hà Nội.

Khi toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền ngày 19/8/1945, ông đã tham gia hoạt động cách mạng. Tháng 2/1950, ông xin gia nhập vào Đảng xã hội Việt Nam. Với "tố chất cách mạng", với sự thông minh và lòng yêu nước từ nhỏ, ông đã nhanh chóng được chính quyền cách mạng và nhân dân tin tưởng giao phó nhiều việc quan trọng. Từ 1945 - 1954, suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Nguyên được giao những trọng trách: Giám đốc Sở Y tế miền Duyên Hải; Chủ tịch UBHC Hải Phòng kiêm Giám đốc Bệnh viện Hải Phòng; Phó Giám đốc Quân dân y tế chiến khu III; Giám đốc Sở Y tế Liên khu 3; Ủy viên UB kháng chiến Liên khu 3, giáo sư trường y sỹ liên khu 3,4... Năm 1954, Giáo sư Nguyên được Chính phủ giao nhiệm vụ làm Viện trưởng Viện Mắt, xây dựng và ổn định bộ máy tổ chức hành chính, chuyên môn, khôi phục các hoạt động của Viện Mắt.

GS. Nguyễn Xuân Nguyên thuyết trình tại Hội thảo ngành mắt toàn quốc năm 1965.           Ảnh: TL
Từ 1958-1975, Giáo sư Nguyên đã công bố hơn 40 công trình nghiên cứu, chủ yếu về bệnh mắt hột và dịch tễ học, phòng bệnh và điều trị. Qua hàng chục công trình nghiên cứu, điều tra, khảo sát cơ sở, Giáo sư - Viện trưởng Nguyễn Xuân Nguyên đã xây dựng được chương trình chiến lược phòng chống bệnh mắt hột, phổ cập đến tận màng lưới y tế xã, phường, nhà trường, mẫu giáo, khắp vùng nông thôn đến vùng cao, vùng sâu... Những năm đầu của thập kỷ 70, vấn đề nổi cộm trong công tác PCML giai đoạn này là bệnh đục thể thủy tinh - một trong hai nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở nước ta (sau bệnh mắt hột). Trên cương vị Viện trưởng, Giáo sư Nguyên tập trung giải quyết mù lòa do bệnh đục thể thủy tinh, mạnh dạn đưa kỹ thuật và tổ chức các đội mổ lưu động xuống tuyến huyện. Năm 1971, với công trình "Cải tiến kỹ thuật trong phẫu thuật đục thể thủy tinh" bước đầu đã đơn giản hóa, cải tiến kỹ thuật và tổ chức mổ tuyến dưới thành công. Năm 1972, Giáo sư Nguyên đã đưa ra khuyến cáo "Giải pháp giải phóng nhanh hơn nữa mù lòa do đục thể thủy tinh ở người già" và kêu gọi ngành mắt: Hãy tiến lên, mổ nhiều, mổ tốt hơn nữa đục thể thủy tinh để mang lại ánh sáng và hạnh phúc cho nhân dân! Lời kêu gọi của ông đã được toàn ngành mắt và nhân dân hưởng ứng tích cực, những "đội quân" mổ đục thuỷ tinh thể  liên tục "ra đời" và "tấn công" vào những "điểm nóng", vùng xa, vùng nông thôn, mang lại ánh sáng cho hàng vạn người, góp phần giải phóng sức sản xuất, mang lại lợi ích kinh tế cũng như ý nghĩa chính trị - xã hội trong cộng đồng, nhân dân ngày càng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào thành tựu KHKT và con đường đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...

Đối với lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Giáo sư Nguyên là người thầy của nhiều thế hệ thầy thuốc nhãn khoa. Ban đầu, từ những hạt nhân đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp trở về, tiếp quản và xây dựng phát triển Nhà thương chữa mắt dốc Hàng Gà, trở thành Viện Mắt hột rồi Bệnh viện Mắt TW, trải qua 5 thập kỷ, hàng ngàn bác sĩ nhãn khoa khắp mọi miền tổ quốc đều được đào tạo và "trưởng thành" từ Viện Mắt. Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên vừa là nhà phẫu thuật giỏi toàn diện, một thầy giáo có phương pháp sư phạm tốt và dày dạn kinh nghiệm, lại có quan điểm khoa học tiên tiến, một lãnh đạo sắc sảo nắm vững đường lối chính trị cách mạng, bởi vậy những quyết sách, những đóng góp và đường lối của ông đã ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển của  Viện Mắt - ngành mắt trong mỗi giai đoạn cách mạng.

Qua hơn 100 công trình và tài liệu, bài viết nghiên cứu của ông đã được công bố thể hiện một quá trình làm việc nghiêm túc và nghiên cứu khoa học không mệt mỏi... Những nỗ lực vượt bậc ấy nói lên phần nào những cống hiến của ông. Các công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyên được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá rất cao, thể hiện tính khoa học, trung thực, sáng tạo, độc đáo và đặc biệt, những công trình đó có tính ứng dụng cao, tạo ra hiệu quả thực tiễn to lớn.

 Bên cạnh những hoạt động chuyên môn và xây dựng Viện Mắt hột - ngành mắt Việt Nam, Giáo sư Nguyên là người tích cực tham gia các hoạt động chính trị và công tác xã hội, ông là Ủy viên Thường vụ Ban chấp hành Trung ương Đảng xã hội Việt Nam, Ủy  viên Ban chấp hành Mặt trận Tổ quốc TW. Năm 1960, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhãn khoa Việt Nam và là Ủy viên Ban thường vụ Quốc hội khóa II.

Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, Giáo sư Nguyên đã coi trọng lĩnh vực khoa học kỹ thuật, sáng kiến cải tiến.

Chính vì thế và cũng bắt nguồn từ đó mà phong trào nghiên cứu khoa học và sáng kiến cải tiến ở Viện Mắt được Giáo sư Nguyên khơi gợi, cổ vũ và phát triển mạnh mẽ, trở thành truyền thống và thế mạnh cho đến nay. Ông khẳng định: "Người cán bộ khoa học kỹ thuật không thể tách mình ra khỏi môi trường của sản xuất. Ta có gần người nông dân, người công nhân, công tác nghiên cứu khoa học của ta có gắn liền với đời sống, gắn liền với sản xuất thì mới thấy rõ yêu cầu của sản xuất và mới thật là quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động".

Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, ông được cấp trên giao nhiệm vụ thành lập khoa Mắt của Bệnh viện Chợ Rẫy. Ngày 19/9/1975, Giáo sư Nguyên lên đường vào Sài Gòn để làm việc với Ban Thống nhất dành cho mấy buồng khám mắt Bệnh viện Chợ Rẫy. Bỗng dưng ông lên cơn đau bụng dữ dội, nhưng vì điều kiện cơ sở y tế trong Nam lúc đó đang trong tình trạng tan hoang sau ngày giải phóng nên việc chẩn đoán và điều trị bệnh của ông gặp nhiều hạn chế. 12 ngày sau đó, vào hồi 9 giờ ngày 1/4/1975, Giáo sư Nguyên đã mất tại Bệnh viện Chợ Rẫy do bị nhồi máu mạch treo. Ông ra đi để lại bao niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, đồng nghiệp và Chính phủ khi tài năng, tâm huyết và những cống hiến của ông đang thì nở rộ...

Những đóng góp lớn lao của Giáo sư Nguyên cho ngành mắt Việt Nam trong suốt những năm tháng lãnh đạo Viện Mắt - ngành mắt Việt Nam nói riêng và ngành y tế nói chung đã được Đảng và nhân dân đời đời ghi nhận. Ngày 10/9/1996, Chủ tịch nước ký quyết định số 991 KT/CTN truy tặng cố Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật các công trình nghiên cứu bệnh mắt hột và các bệnh mù lòa ở Việt Nam (giai đoạn 1938-1975).

Trên mọi lĩnh vực, Giáo sư Nguyên đều có sáng tạo và đi đầu. Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng lớn đến ngành mắt Việt Nam ngay từ những buổi đầu hình thành, từ công tác đào tạo cán bộ đến phát triển khoa học kỹ thuật, từ sự đoàn kết của nhân dân đến sự đoàn kết của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, trong ngành... Ở đâu ông cũng chia sẻ những khó khăn của nhân dân trong tư cách vừa là người thầy thuốc, thầy giáo, vừa là "công bộc của dân". Ông đi nhiều nơi, lăn lộn với công tác ngành, với hoạt động chống "đại dịch" bệnh mắt hột, công tác phong trào vận động quần chúng  ...

Xin nhắc lại triết lý sống của cố Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên mà sinh thời ông vẫn thường bộc bạch, sẻ chia với bạn bè, đồng nghiệp mà chúng tôi cũng xem đó là lời dạy, lời tri ân, để khép lại bài viết về ông - một người thầy thuốc nhãn khoa mẫu mực và toàn năng, người gây dựng, tạo nền móng cho ngành nhãn khoa Việt Nam ở thế kỷ XX: "Chân lý là đem hết sự hiểu biết, đem hết trí tuệ và sức lực của mình để phục vụ giai cấp, phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng. Yêu nước là yêu khoa học, yêu hoà bình và yêu Chủ nghĩa xã hội. Đó là chân lý cao cả nhất, sán lạn nhất".

Đỗ Xuân Hồng


Ý kiến của bạn