Vì vậy, cơ sở y tế cần lưu ý và ngay cả sản phụ, người thân cũng cần quan tâm để thông báo những bất thường sau sinh nhằm giúp phát hiện, xác định sớm tai biến sản khoa.
Nguyên nhân gây xuất huyết và cách xử trí chung
Sau khi sản phụ sinh con, nếu xảy ra hiện tượng chảy máu hay xuất huyết qua âm đạo quá 500ml thường được xem là chảy máu sau sinh đẻ. Đây là một tai biến sản khoa hay gặp nhất và cũng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người mẹ. Chảy máu hay xuất huyết sau khi sinh là bệnh cảnh lâm sàng thường gặp xảy ra do bệnh lý đờ tử cung, tử cung không co lại khi thai nhi và nhau thai được tống ra; bị chấn thương đường sinh dục, đặc biệt là vỡ tử cung; có sự bất thường về quá trình bong nhau thai, sổ nhau thai; bị rối loạn đông máu...
Khi xảy ra tình trạng này, cách xử trí chung là huy động tất cả mọi người đến giúp đỡ, hỗ trợ để cấp cứu; phải khẩn trương đánh giá thể trạng chung của sản phụ với các dấu hiệu sinh tồn như mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ; nếu nghi ngờ có sốc hoặc bắt đầu có sốc phải xử trí ngay theo phác đồ xử trí sốc quy định; cần đánh giá tình trạng mất máu bằng túi đo lượng máu mất; thực hiện các thủ thuật thông tiểu, xoa bóp tử cung và các biện pháp cầm máu cơ học khác để cầm máu; tiêm bắp thịt 10 đơn vị thuốc oxytocin; thiết lập ngay đường truyền tĩnh mạch, cho dịch truyền chảy với tốc độ nhanh; đồng thời xin sự hỗ trợ của tuyến trên hoặc chuyển tuyến lên nếu điều kiện thể trạng của sản phụ cho phép.
Phải đỡ đẻ đúng kỹ thuật, nhẹ nhàng để tránh gây chấn thương đường sinh dục
Triệu chứng nguyên nhân và cách xử trí
Tình trạng chảy máu hay xuất huyết ở sản phụ sau sinh có nhiều nguyên nhân khác nhau như đờ tử cung, chấn thương đường sinh dục, có sự bất thường về quá trình bong nhau thai và sổ nhau thai, bị rối loạn đông máu... Tùy theo từng trường hợp, biểu hiện triệu chứng lâm sàng sẽ khác nhau và các xử trí cũng khác nhau.
Đờ tử cung: triệu chứng thường thấy là chảy máu ngay sau khi sổ nhau thai, đây là triệu chứng phổ biến nhất. Tử cung giãn to, mềm nhão, co hồi kém hoặc không co hồi, không có khối an toàn. Thực tế có thể dẫn đến tình trạng sốc nếu không xử trí kịp thời.
Việc xử trí được thực hiện tùy theo tuyến y tế. Đối với tuyến y tế xã, phường, thị trấn: dùng các biện pháp cơ học để cầm máu như xoa bóp tử cung, chẹn động mạch chủ bụng, chẹn tử cung qua thành bụng, ép ngoài tử cung bằng hai tay hoặc ép trong và ngoài tử cung; đặt thông tiểu; kiểm soát tử cung để lấy hết nhau thai còn sót và máu cục rồi tiêm bắp thịt thuốc oxytocin từ 5 - 10 đơn vị, có thể tiêm nhắc lại 2 lần; nếu tử cung không co, tiêm thuốc ergometrin 0,2mg với 1 ống vào bắp thịt hoặc thuốc misoprostol 200mcg với 1 - 4 viên ngậm dưới lưỡi; truyền dịch chống sốc, cho kháng sinh toàn thân; nếu không cầm được máu thì phải tư vấn, giải thích cho sản phụ cùng người thân và nhanh chóng chuyển sản phụ lên tuyến trên hoặc mời tuyến trên đến hỗ trợ, giúp đỡ; lưu lý khi chuyển lên tuyến trên nhất thiết phải có nhân viên y tế đi kèm để theo dõi và hồi sức, đồng thời xoa bóp tử cung liên tục. Đối với tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh: xử trí can thiệp như tuyến xã, phường, thị trấn; trong trường hợp có nguy cơ chảy máu sau khi sinh hoặc đã có chảy máu sau khi sinh, sử dụng thuốc carbetocin 100mcg với 1 ống tiêm bắp thịt hoặc thuốc prostodin; lưu ý phải xử trí kịp thời để tránh tình trạng chảy máu kéo dài dẫn tới hiện tượng rối loạn đông máu; nếu xử trí như trên nhưng không có kết quả phải phẫu thuật cắt bỏ tử cung bán phần khi sản phụ đã có đủ số con yêu cầu hoặc nếu có điều kiện và kinh nghiệm thì sử dụng mũi khâu B-Lynch hay thắt động mạch hạ vị, động mạch tử cung trước khi cắt tử cung; cần kết hợp thực hiện vừa phẫu thuật vừa hồi sức, truyền máu; đồng thời cho kháng sinh toàn thân.
Chấn thương đường sinh dục như bị rách âm hộ, âm đạo, tầng sinh môn, cổ tử cung; vỡ tử cung và máu tụ đường sinh dục: trong trường hợp này, tử cung co hồi tốt nhưng máu vẫn chảy ra ngoài âm hộ, máu đỏ tươi chảy rỉ rả hay thành dòng liên tục. Khám phát hiện thấy vết rách và máu tụ lại ở đường sinh dục.
Việc xử trí can thiệp cũng tùy theo tuyến y tế. Đối với tuyến y tế xã, phường, thị trấn: xử trí theo nguyên tắc tiến hành song song phương pháp cầm máu và hồi sức, may lại tầng sinh môn nếu rách độ 1 và độ 2; nếu rách tầng sinh môn độ 3, rách âm hộ, âm đạo, cổ tử cung và vẫn tiếp tục chảy máu hoặc máu tụ, phải chuyển sản phụ tuyến trên hay mời tuyến trên xuống xử trí; khi chuyển lên tuyến trên phải cầm máu tạm thời bằng cặp mạch máu nơi chảy máu hoặc chèn chặt trong âm đạo và cho kháng sinh ngừa nhiễm khuẩn. Đối với tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh: phải cầm máu và hồi sức chống sốc, may phục hồi các vết rách bằng chỉ tự tiêu mũi rời ở cổ tử cung, túi cùng, âm hộ, âm đạo và may nhiều lớp ở vị trí rách tầng sinh môn; nếu vỡ tử cung phải thực hiện việc xử trí theo đúng quy định. Lưu ý tùy theo vị trí, kích thước và sự tiến triển của khối máu tụ để có thái độ xử trí thích hợp.
Bất thường về quá trình bong nhau thai và sổ nhau thai: đối với trường hợp sót nhau thai, sót màng nhau thai: triệu chứng chảy máu âm đạo thường xuất hiện sau khi sổ nhau thai, tử cung có thể co hồi kém; máu ra rỉ rả, lượng máu ra có thể ít hoặc nhiều, máu đỏ tươi lẫn máu cục; có thể phát hiện sớm tình trạng sót nhau thai bằng cách kiểm tra bánh nhau và màng nhau; nếu phát hiện muộn, không kịp thời, sản phụ bị mất máu nhiều sẽ có biểu hiện của dấu hiệu sốc. Việc xử trí can thiệp thực hiện tùy theo tuyến y tế. Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn: cho sản phụ truyền dịch bằng đường tĩnh mạch ngay, dùng thuốc giảm đau như morphin 10mg với 1 ống tiêm bắp thịt và tiến hành kiểm soát tử cung, đồng thời tiêm bắp thịt từ 5 - 10 đơn vị thuốc oxytocin hoặc ergometrin 0,2mg, sử dụng kháng sinh toàn thân; theo dõi mạch, huyết áp, tình trạng chảy máu và co hồi tử cung; nếu có sốc phải hồi sức, tư vấn, giải thích cho sản phụ và người thân rồi chuyển lên tuyến trên hoặc mời tuyến trên đến hỗ trợ; khi chuyển lên tuyến trên phải có nhân viên y tế đi kèm. Ở tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh: phải hồi sức truyền máu nếu thiếu máu cấp tính; tiếp tục theo dõi mạch, huyết áp, tình trạng chảy máu và co hồi tử cung; nếu còn ra máu cho thêm thuốc oxytocin tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch hay tiêm bắp 1 ống carbetocin 100mcg hoặc prostodin; kiểm soát tử cung lại nếu cần thiết.
Phát hiện sớm các nguy cơ cao để chuyển sản phụ lên sinh đẻ ở tuyến trên
Đối với trường hợp nhau không bong: thường xảy ra trong vòng 30 phút sau khi sổ thai nhi hoặc dùng biện pháp biện pháp xử trí tích cực giai đoạn 3 của chuyển dạ nhưng không có kết quả, nhau bám chặt và không chảy máu; trường hợp nhau thai cài răng lược bán phần thì sau khi thai nhi đã sổ 30 phút, nhau thai không bong hoàn toàn và chảy máu nhiều hay ít tùy theo diện nhau thai bong rộng hay hẹp; trường hợp nhau cài răng lược toàn phần ít gặp và không gây chảy máu. Lưu ý quá trình bong nhau thai và sổ nhau thai thường được phát hiện trong quá trình bóc nhau nhân tạo.Việc xử trí can thiệp cũng thực hiện theo tuyến y tế. Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn: nếu chảy máu, tiến hành bóc nhau thai và kiểm soát tử cung, tiêm bắp thịt thuốc oxytocin 10 đơn vị, xoa bóp tử cung, hồi sức chống sốc, cho kháng sinh; nếu không bóc tách được hoặc vẫn chảy máu thì phải chuyển sản phụ lên tuyến trên ngay hoặc mời tuyến trên đến hỗ trợ; nếu nhau thai không bong thì không được bóc nhau thai mà phải chuyển lên tuyến trên ngay. Ở tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh: bóc nhau thai nhân tạo và kiểm soát tử cung, tiêm thuốc co bóp tử cung; nếu nhau cài răng lược bán phần chảy máu hoặc nhau cài răng lược toàn phần phải cắt bỏ tử cung; nếu chảy máu nhiều cần phải hồi sức chống sốc, truyền máu, phẫu thuật và cho kháng sinh.
Rối loạn đông máu: có thể tiên phát do các bệnh về máu nhưng thường là thứ phát do chảy máu nhiều, mất sinh sợi huyết bởi đông máu nội mạch rải rác. Đông máu nội mạch rải rác có thể kết hợp với tiền sản giật nặng, thai chết trong tử cung và nhau bong non thể ẩn. Tất cả các tình trạng bệnh lý này có thể dẫn đến tiêu sinh sợi huyết.
Việc xử trí can thiệp điều trị thực hiện tùy theo tuyến y tế. Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn: phải tư vấn, giải thích cho sản phụ và người thân rồi chuyển lên bệnh viện tuyến trên. Ở bệnh viện quận, huyện, thị xã, thành phố: điều trị nội khoa chủ yếu bằng cách truyền máu tươi và điều trị nguyên nhân; nếu tình trạng nặng, bệnh viện phải chuyển sản phụ lên bệnh viện tỉnh hoặc mời bệnh viện tỉnh đến hỗ trợ.
Phòng ngừa xuất huyết sau khi sinh
Để phòng ngừa sản phụ bị xuất huyết sau khi sinh, cơ sở y tế tuyến dưới cần bảo đảm công tác quản lý thai nghén thật tốt, phát hiện sớm các nguy cơ cao để chuyển sản phụ lên sinh đẻ ở tuyến trên. Lưu ý việc xử trí tích cực ở giai đoạn 3 của quá trình sản phụ chuyển dạ. Không để xảy ra tình trạng chuyển dạ kéo dài. Phải đỡ đẻ đúng kỹ thuật, nhẹ nhàng để tránh gây chấn thương đường sinh dục; khi có tổn thương đường sinh dục, cần phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Phải theo dõi sát sản phụ 6 giờ đầu sau khi sinh đẻ, đặc biệt là trong 2 giờ đầu để phát hiện sớm các trường hợp chảy máu hay xuất huyết bất thường.
Xuất huyết hay chảy máu sau khi sinh là một tai biến sản khoa thường gặp ở một số sản phụ mà hậu quả có thể dẫn đến nguy cơ tử vong nếu không được phát hiện, chẩn đoán xác định và điều trị kịp thời. Vì vậy, để hạn chế tình trạng này, sản phụ mang thai phải đi khám thai định kỳ theo quy định để sớm phát hiện những dấu hiệu bất thường nhằm có tiên lượng và hướng chủ động xử trí can thiệp. Đồng thời cơ sở y tế ở các tuyến phải phát hiện và chẩn đoán sớm nguyên nhân gây nên để thực hiện việc xử trí điều trị theo nguyên nhân một cách kịp thời, cụ thể nhằm hạn chế nguy cơ tử vong do tai biến sản khoa có thể xảy ra.