TAND TP. Hà Nội đã mở phiên xét xử 22 bị cáo trong vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tổng Công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC). Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, được dư luận xã hội quan tâm.
Bị cáo Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh tại phiên sơ thẩm.
Sáng 9/1, HĐXX phiên tòa xét xử ông Đinh La Thăng và các đồng phạm đã tiếp tục phần xét hỏi. Ông Đinh La Thăng lần đầu tiên trả lời các câu hỏi thẩm vấn của HĐXX tại phiên tòa. Theo cáo buộc của cơ quan tố tụng, trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 (Dự án Thái Bình 2), bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo Vũ Đức Thuận ký Hợp đồng số 33 trái quy định để PVC được nhận tạm ứng 6,6 triệu USD và hơn 1.312 tỷ đồng; chỉ đạo việc sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng trong số tiền tạm ứng vào mục đích khác, không đưa vào Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, gây thiệt hại cho Nhà nước tổng số hơn 119 tỷ đồng. Ngoài ra, bị can Trịnh Xuân Thanh đã đề ra chủ trương cùng bị can Vũ Đức Thuận chỉ đạo Nguyễn Anh Minh, nguyên Phó Tổng giám đốc PVC và Lương Văn Hòa, nguyên Giám đốc Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC, lập khống hồ sơ rút hơn 13 tỷ đồng từ Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân, trong đó Trịnh Xuân Thanh được ăn chia 4 tỷ đồng. Bị can Thanh cũng phải chịu trách nhiệm cùng Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh, Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng.
Tại tòa, HĐXX đã xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng về việc chỉ định thầu Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 cho PVC, trong khi năng lực của PVC rất yếu kém. Trả lời câu hỏi của HĐXX về căn cứ nào để giao PVC làm tổng thầu? Ông Thăng khai rằng việc chọn lựa đối tác nước ngoài là khó cho Việt Nam. Còn năng lực tài chính và kinh nghiệm thì ông Thăng khẳng định thời điểm đó PVC có đủ và PVC đã thi công hàng trăm công trình rồi chứ không chỉ có công trình Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2. Về năng lực tài chính, bị cáo Thăng cho rằng dựa vào các báo cáo của PVC và các bộ phận giúp việc của PVN báo cáo. Do đó, căn cứ vào năng lực và thực tiễn của PVC nên bị cáo đồng ý về nguyên tắc.
“Khi PVC ký Hợp đồng 33 thì PVC đã có các đánh giá, hồ sơ chưa?” - HĐXX hỏi. Bị cáo Thăng trả lời: “Trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư và tổng thầu, vì việc ký kết hợp đồng đó bị cáo không chỉ đạo ký hợp đồng”. HĐXX hỏi tiếp: “Căn cứ vào đâu bị cáo khẳng định ngày 1/3/2011 sẽ khởi công Nhiệt điện Thái Bình 2?”. Bị cáo Đinh La Thăng cho biết, căn cứ vào báo cáo của chủ đầu tư và bị cáo đồng ý, khi PVPower cho rằng có đủ năng lực khởi công nên bị cáo đồng ý. “Ngày 24/2/2011 bị cáo ký báo cáo hiệu chỉnh đầu tư, rõ ràng bị cáo nhận thức được rằng báo cáo chưa đầy đủ, vậy làm sao triển khai được?” - HĐXX hỏi. Ông Thăng trả lời, vì PVN đã triển khai hàng trăm công trình khắp nơi chứ không chỉ có Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2. Do đó, để đảm bảo chất lượng tiến độ, tập đoàn luôn chỉ đạo các đơn vị thành viên thực hiện đồng thời nhiều việc...
Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 đang trong giai đoạn thi công xây lắp cao điểm, chuẩn bị bước vào giai đoạn vận hành chạy thử.
Kết thúc phần xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng, HĐXX đặt câu hỏi: “Bị cáo nhận thức trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo thực hiện dự án, bị cáo nhận thức có gì sai phạm?”.
Bị cáo Thăng trả lời: “Trong suốt quá trình điều tra, bị cáo cũng đã nhận thức trách nhiệm trước cơ quan điều tra, là người đứng đầu PVN và dự án, đến nay sau 10 năm, được cán bộ cơ quan điều tra, viện kiểm sát và trước tòa chỉ ra, nhìn lại dự án trong bối cảnh 10 năm về trước, việc sức ép tiến độ, bị cáo chỉ đạo nóng vội, nôn nóng, quá quyết liệt, vi phạm quy trình, thủ tục. Bị cáo xin nhận trách nhiệm”.
Tại phiên tòa sáng 9/1, HĐXX thẩm vấn Trịnh Xuân Thanh trong thời gian làm Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty PVC về tình hình tài chính của PVC thời điểm năm 2009, Trịnh Xuân Thanh cho biết, theo báo cáo tài chính khi đó PVC có lãi nhưng tiềm ẩn nguy cơ thua lỗ.
Thẩm vấn bị cáo Trịnh Xuân Thanh, HĐXX hỏi: Bị cáo cho biết đã chỉ đạo ký Hợp đồng 33 như thế nào? Trịnh Xuân Thanh trả lời: “Khi PVN chỉ định PVC thực hiện Dự án Thái Bình 2, PVC là đơn vị thi công nên rất mừng vì được chọn làm tổng thầu. PVC lúc đó cũng liên hệ với các nhà thầu nước ngoài. Bản thân bị cáo biết PVC lúc đó chưa đủ điều kiện nhưng thực tế lúc đó cả nước cũng chỉ có PVC và Lilama làm được. Lúc đó PVC cũng từng liên kết thực hiện dự án vượt tiến độ và rất thành công”.
HĐXX: Đầu tư vượt vốn điều lệ gần 1.000 tỷ đồng với năng lực lúc đó, bị cáo thấy gánh thực hiện Dự án Thái Bình 2 với vai trò tổng thầu thì như thế nào? Bị cáo Thanh trả lời: PVC mất cân đối là do thiếu vốn, kế hoạch năm 2012 tăng vốn điều lệ để bù đắp. Tại thời điểm đó, nếu đơn vị xây lắp nhận được một dự án thì rất tốt, tạo công ăn việc làm cho cán bộ, nâng cao năng lực, thêm đó, có dự án sẽ có lợi nhuận. Càng khó khăn, càng có công việc thì đó là điều mừng.
HĐXX: Thực hiện tái cơ cấu, PVN giao thêm một số dự án được chuyển về cho PVC thực hiện, trong khi điều kiện tài chính đang có vấn đề thì là yếu tố thuận lợi hay khó khăn? Bị cáo Thanh khai, tại thời điểm đó, những dự án PVN giao cho PVC làm đều rất thuận lợi. Khi triển khai những dự án đó, các kế hoạch về tài chính đều rất rõ ràng, thậm chí nhận được tiền tạm ứng trước. Bị cáo và PVC hy vọng hoàn cảnh đó sẽ vượt qua được khó khăn.
Trước đó, trong ngày xét xử đầu tiên (8/1), HĐXX đã xét hỏi các bị cáo, chủ yếu là làm rõ tính pháp lý của Hợp đồng EPC số 33, việc PVN cho tạm ứng và chuyển tiền cho PVC, dẫn đến thất thoát tiền Nhà nước. HĐXX đã quyết định cách ly các bị cáo Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh để tiến hành xét hỏi đối với các bị cáo trong nhóm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.