Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế, các bệnh không lây nhiễm cũng không ngừng gia tăng. Các bệnh lý tim mạch được coi là nguyên nhân số một của các nguy cơ tử vong và đột quỵ. Suy mạch vành là một trong những nguyên nhân của đột quỵ do nó gây nên nhồi máu cơ tim. Vậy cần phải đối phó ra sao với bệnh này?
Để không mắc bệnh, biện pháp quan trọng nhất là dự phòng bệnh bằng cách can thiệp vào lối sống ngay từ khi còn trẻ. Với chế độ ăn lành mạnh, không ăn thức ăn có nhiều chất béo, phủ tạng động vật, thức ăn nhanh; ăn nhiều rau xanh cùng với lối sống tăng cường hoạt động ngay từ khi còn trẻ là biện pháp quan trọng nhất để ngăn ngừa bệnh này. Còn khi bạn đã bị suy mạch vành thì không thể chậm chễ biện pháp điều trị. Mục tiêu điều trị bằng thuốc phải giải quyết được các vấn đề như làm giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim; phân bố lại máu có lợi cho vùng cơ tim bị thiếu oxy; tăng cung cấp oxy cho cơ tim; bảo vệ tế bào cơ tim bị thiếu máu. Các loại thuốc có thể kể đến là:
Thuốc làm giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim
Nhóm thuốc giảm tiền gánh là các thuốc làm giảm gánh nặng hay giảm công co bóp của tế bào cơ tim. Các thuốc này gồm chủ yếu là các dẫn chất của nitrat. Có 2 loại nitrat chủ yếu: tác dụng nhanh và tác dụng chậm, kéo dài, trong đó một số biệt dược được sử dụng chủ yếu như nitroglycerin.
Cũng có tác dụng làm giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim còn có các thuốc làm giảm hậu gánh, giảm sức cản ngoại vi, do đó làm giảm công của tim nên giảm lượng tiêu thụ oxy của tế bào cơ tim. Các thuốc này bao gồm thuốc như chẹn kênh canxi, nitrat, ức chế thụ thể bêta giao cảm...
Các thuốc làm giảm sức co bóp của cơ tim, do vậy làm giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim như các chất ức chế thụ thể bêta giao cảm (một số thuốc như propranolol, bisoprolol, metoprolol, atenolol...), các thuốc chẹn kênh canxi (verapamil, diltiazem).
Các thuốc làm giảm nhịp tim là các chất ức chế thụ thể bêta giao cảm, các thuốc chẹn kênh canxi, amiodaron.
Vùng cơ tim bị tổn thương màu sẫm.
Thuốc phân bố lại máu
Lớp cơ nằm sát với buồng chứa máu của tim (nội tâm mạc) bị áp lực của tim trực tiếp dễ bị thiếu máu so với lớp cơ ngoài cùng (ngoại tâm mạc). Do vậy, khi lớp cơ tim này bị thiếu, cần phải dùng đến thuốc giúp phân bố lại máu có lợi cho vùng cơ tim bị thiếu. Một số thuốc, đặc biệt là dẫn chất nitrat, các chất ức chế thụ thể bêta giao cảm có tác dụng làm thay đổi sự phân phối máu giữa các cơ dưới nội tâm mạc và ngoại tâm mạc, tạo điều kiện cho lớp dưới nội tâm mạc được ưu tiên phân phối máu nhiều hơn nhờ vào những cơ chế khác nhau, do vậy làm cải thiện được tình trạng thiếu máu cơ tim ở lớp dưới nội tâm mạc.
Thuốc tăng cung cấp lượng oxy
Tăng cung cấp oxy nghĩa là phải tăng cường lượng máu đến tế bào cơ tim hay nói cách khác là làm tăng cung lượng máu của động mạch vành. Đó chính là vai trò của các thuốc làm giãn động mạch vành. Khi động mạch vành giãn ra có thể sẽ xảy ra hiện tượng vùng tế bào cơ tim lành, do động mạch vành còn tốt nên giãn nhiều hơn gây nên hiện tượng “cướp máu” của vùng cơ tim bị thiếu máu, làm vấn đề thiếu máu lại trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, những khuyến cáo gần đây nhất về điều trị bệnh thiếu máu cơ tim vẫn nêu lên tác dụng tốt của các thuốc giãn mạch vành, do vậy, thuốc vẫn được chỉ định điều trị cho các bệnh nhân thiếu máu cơ tim. Nhóm thuốc này chủ yếu là các dẫn chất của nitrat, dipyridamol.
Thuốc bảo vệ tế bào cơ tim
Thuốc này có tác dụng bảo vệ chức năng của tylạp thể (là nơi cung cấp năng lượng cho tế bào cơ tim hoạt động), do vậy kéo dài được thời gian chịu đựng thiếu oxy của các tế bào cơ tim. Nhiều nghiên cứu gần đây đã cho thấy nhóm thuốc này có tác dụng làm giảm số cơn đau thắt ngực và tăng khả năng gắng sức của bệnh nhân. Biệt dược được dùng rất phổ biến hiện nay là vastarel (hoạt chất trimetazidin).
Ngoài các thuốc tác động trực tiếp lên cơ tim bị thiếu máu, ngày nay, người ta ngày càng chú trọng đến vai trò của thành mạch và tiểu cầu trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng mạch vành cấp - một diễn biến cấp tính và nguy hiểm của bệnh suy mạch vành. Nguyên nhân là do sự nứt hoặc đứt gãy của mảng vữa xơ động mạch vành, giải phóng các yếu tố tăng đông, hoạt hóa tiểu cầu và nhanh chóng hình thành cục máu đông gây nên tắc một phần hoặc hoàn toàn động mạch vành cấp tính. Chính vì vậy, trong điều trị suy mạch vành không thể không nhắc đến 2 nhóm thuốc: các thuốc chống kết tập tiểu cầu và các thuốc có tác dụng làm ổn định hay thoái triển mảng vữa xơ động mạch.
Các thuốc chống kết tập tiểu cầu: đại diện là aspirin và các dẫn chất của thienopyridin, có tác dụng ngăn chặn không cho tiểu cầu kết dính vào tổn thương động mạch vành và kết dính với nhau, do vậy ngăn cản sự hình thành cục máu đông gây tắc nghẽn động mạch vành.