Vụ án xảy ra tại TISCO là một trong những đại án lớn về kinh tế tham nhũng được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng xếp vào diện theo dõi, chỉ đạo.
Liên quan đến vụ án, có 14 bị can bị đề nghị truy tố về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí gồm: ông Mai Văn Tinh, cựu Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thép Việt Nam (VNS); Đậu Văn Hùng, cựu Tổng Giám đốc VNS; Trần Trọng Mừng, cựu Tổng Giám đốc TISCO; Trần Văn Khâm, cựu Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc TISCO; Ngô Sỹ Hán, cựu Phó Tổng giám đốc, Trưởng ban Quản lý dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - TISCO... 5 bị can còn lại bị đề nghị truy tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Dự án mở rộng gang thép Thái Nguyên có tổng mức đầu tư hàng ngàn tỷ đồng đang trong tình trạng hư hỏng, rỉ sét.
Theo kết luận điều tra, TISCO tiền thân là doanh nghiệp Nhà nước, sau đó chuyển đổi sang mô hình cổ phần, Nhà nước nắm 65% vốn điều lệ và được quản lý thông qua VNS. Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 do TISCO làm chủ đầu tư được triển khai từ năm 2007 với tổng mức đầu tư dự kiến 3.843 tỷ đồng. Đơn vị trúng thầu là Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC). Tháng 7/2007, ông Trần Trọng Mừng, Tổng Giám đốc TISCO đã ký Hợp đồng số 01 EPC với đại diện của MCC. Giá trị hợp đồng hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Thời gian thực hiện hợp đồng được ấn định là 30 tháng.
Đến tháng 8/2008, sau hơn 11 tháng khởi công xây dựng, MCC tự ý dừng hợp đồng, rút hết người về nước trong khi chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu nhưng lại có nhiều văn bản gửi TISCO đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng. Không những thế, MCC còn có văn bản đề nghị điều chỉnh giá hợp đồng EPC với tổng chi phí tăng thêm là hơn 138 triệu USD không có cơ sở.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, bị can Trần Trọng Mừng (Tổng Giám đốc TISCO), Mai Văn Tinh (Chủ tịch HĐQT VNS), Đậu Văn Hùng (Tổng Giám đốc VNS) và các bị can có liên quan đã không chỉ đạo, áp dụng đúng với các điều khoản của hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định để dừng hợp đồng với MMC mà quyết tâm bằng mọi biện pháp để tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Theo đó, bị can Trần Trọng Mừng đã ký văn ban gửi Bộ Công Thương và VNS đề nghị “cho giải quyết đặc cách” phạm vi được điều chỉnh về giá thiết bị và các chi phí khác đối với dự án. Bị can Nguyễn Trọng Khôi (Phó Tổng giám đốc VNS) đã ký văn bản gửi Bộ Công Thương, trong đó có nội dung: “Để cùng chia sẻ khó khăn với MCC, chủ đầu tư sẽ đề nghị lên các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết điều chỉnh đối với phần xây dựng (phần C) của hợp đồng...”.
Từ năm 2012, từ đề xuất của TISCO, VNS đã có văn bản gửi Bộ Công Thương và đề nghị Thủ tướng điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án từ hơn 3.800 tỷ đồng lên 8.100 tỷ đồng, dự kiến năm 2014 hoàn thành. Năm 2013, việc dự án đội vốn lên 110,8% đã được các bên liên quan chấp thuận nhưng nhà thầu Trung Quốc vẫn tiếp tục tạm dừng thi công cho đến nay.
Theo kết luận điều tra, tính đến ngày 31/12/2018, TISCO đã đầu tư cho dự án hơn 4.400 tỷ đồng, trong đó vốn vay ngân hàng VDB Bắc Kạn - Thái Nguyên là 1.400 tỷ đồng, vay Ngân hàng Vietinbank Hà Nội 1.600 tỷ đồng. Đến nay dự án đã quá thời hạn được phê duyệt 10 năm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định, hậu quả thiệt hại trong vụ án này là 830 tỷ đồng là tiền lãi thực tế mà TISCO phải trả cho các ngân hàng do dự án chậm tiến độ theo hợp đồng.
Theo kết luận điều tra, các bị can trong vụ án này là người có chức vụ, quyền hạn, nhận thức rõ theo quy định pháp luật thì hợp đồng EPC giữa MMC với TISCO không được phép điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng nhưng các bị can đã chỉ đạo, tổ chức đàm phán với nhà thầu và phải gánh chịu rủi ro. Việc làm trên đã làm thay đổi bản chất, phá vỡ nguyên tắc quản lý hợp đồng EPC, tạo điều kiện cho MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC số 01. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến TISCO không kiểm soát được chi phí đầu tư vào dự án, không ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu phụ về tiến độ, làm dự án phải dừng thi công, gây thất thoát lãng phí tài sản cho Nhà nước.