Có người bảo rằng, căn bệnh vô cảm là do một loại “virut” vô hình nào đó mang từ xã hội hiện đại đến cho con người. Nói như vậy không hẳn là sai, nhưng chưa đủ và chưa thật trúng. Bởi lẽ, cùng một hiện tượng đang xảy ra trước mắt chúng ta, nhưng mỗi người lại có suy nghĩ và lối ứng xử khác nhau theo cách của mình, mặc dù họ đều sống trong xã hội hiện đại.
Chẳng hạn trước cảnh các em học sinh tiểu học vùng cao thôn Xuân Lũng, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn ngày ngày phải tròng trành trên chiếc mảng bương qua bên kia sông để đến lớp học giữa cái rét cắt da, xé thịt. Thôn Xuân Lũng khó không chỉ vì thiếu đất sản xuất, mùa mưa nước lên làm ngập cả làng, mà khó hơn là cả thôn đồng bào Nùng ở đây không có đường. Người dân dù muốn đi chợ mua gói muối, hạt gạo cũng phải dùng mảng vượt sông. Trẻ con ở Xuân Lũng thì phải học bơi trước khi học chữ, nếu không biết bơi, mùa lũ khó có thể sang sông đi học. Hiện Xuân Lũng là thôn nghèo nhất xã, thiếu đủ mọi thứ.

Trước cảnh tượng ấy, người thì xót thương, nhưng lực bất tòng tâm. Kẻ có đủ điều kiện lại thờ ơ không nỡ bắc một chiếc cầu, dù là cầu tạm qua sông, để bớt đi nỗi lo về sức khỏe và tính mạng của chính các em.
Hay những câu chuyện đến nao lòng khi em Thào A Nua, dân tộc Mông, học sinh lớp 8A, Trường THCS Háng Đồng, Bắc Yên, Sơn La phải học bài nhờ ánh sáng tù mù của chiếc đèn pin đeo trên trán hay điện thoại di động. Do nhà xa nên phụ huynh các em phải dựng chòi gỗ ở cạnh trường. Không có điện lưới, thời tiết mùa đông rét và mau tối, chiếc đèn pin trở thành vật không thể thiếu trong sinh hoạt buổi tối của Nua cũng như các bạn. Chỉ khi cần thiết chiếc đèn pin mới được bật để làm sao 2 viên pin tiểu dùng vừa vặn trong 1 tuần. Ngay cả đến bữa cơm của các em cũng được nấu và ăn dưới ánh đèn pin hoặc từ chiếc điện thoại di động. Còn Mùa A Cua, học sinh lớp 5B luôn ôn bài buổi tối bằng chiếc đèn pin chỉ soi đủ ánh sáng vừa cho một trang vở. Mùa đông ở Háng Đồng đến 8 giờ sáng trời vẫn tối do sương mù dày đặc, học sinh phải soi đèn mới có thể nhìn được mặt chữ lúc ôn bài trước khi đến lớp và phải soi đèn pin để đến trường.
Đấy là vài ba trong số hàng trăm nghìn học sinh vùng cao còn thiếu thốn những cái mà đối với các bạn cùng trang lứa ở miền xuôi hay các thành phố chẳng bao giờ phải bận tâm, chứ chưa nói là mơ ước nữa. Vậy mà các em ở Xuân Lũng, có một chiếc cầu bắc qua sông đi học vẫn còn là một ước mơ xa vời vợi. Còn nhiều em ở các xã vùng cao Tây Bắc có được ánh điện sáng cứ như là chuyện thần tiên vậy.
Không biết sức khỏe và tính mạng của các em học sinh vùng cao đặc biệt khó khăn này sẽ được đảm bảo đến đâu vào những mùa mưa lũ, hay trong cái rét của mùa đông, đêm tối trên lưng chừng núi cao, cứ bám riết theo các em từ năm này sang năm khác.
Không biết đấy có phải là hệ quả tất yếu của căn bệnh vô cảm do người lớn gây nên, nhất là những người gánh trên vai sứ mệnh “nô bộc” của dân.
Thiển nghĩ, như vậy những người có điều kiện và có trách nhiệm đang mắc phải căn bệnh vô cảm. Căn bệnh ấy đâu phải từ xã hội hiện đại đem đến, mà nó sinh ra ngay trong chính suy nghĩ và việc làm của mỗi người chúng ta.
Được biết, hàng năm ngân sách nhà nước ta dành một khoản tiền không nhỏ cho các chương trình giúp đồng bào ở những vùng đặc biệt khó khăn từng bước xóa đói, giảm nghèo và tiến tới ổn định cuộc sống, vươn lên phát triển kinh tế, làm giàu ngay chính tại quê hương.
Nếu những người có trách nhiệm bớt đi căn bệnh vô cảm thì chắc chắn người dân, nhất là các em nhỏ vùng sâu, vùng xa sẽ không còn phải chịu cảnh thiếu thốn, đói nghèo đang hàng ngày hàng giờ đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của các em.
Đỗ Thanh