1. Viêm tủy ngang là gì?
Viêm tủy ngang (cắt ngang) là quá trình viêm nhiễm xảy ra ở một hoặc nhiều khoanh tủy, chủ yếu gặp ở đoạn tủy ngực. Kết quả của tình trạng này là sự tổn thương, phá hủy chất Myelin (giàu lipid và protein) bọc quanh sợi trục tế bào thần kinh và làm tế bào thần kinh mất đi khả năng dẫn truyền thông tin thần kinh từ tủy sống đến những phần khác của cơ thể.
Viêm tủy cắt ngang hay viêm tuỷ ngang cấp tính phổ biến nhất xơ cứng rải rác. Tuy nhiên, bệnh có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị viêm mạch, lupus ban đỏ hệ thống (SLE), hội chứng kháng phospholipid, các rối loạn tự miễn dịch khác, nhiễm mycoplasma, bệnh Lyme, giang mai, bệnh lao (TB), COVID-19 hoặc viêm não màng não do vi rút hoặc trên những bệnh nhân dùng amphetamine, heroin đường tĩnh mạch, thuốc chống ký sinh trùng hoặc thuốc chống nấm.
Viêm tủy ngang đi kèm viêm dây thần kinh thị giác hay gặp trong viêm tủy thị thần kinh (bệnh Devic), từng được coi là một biến thể của xơ cứng rải rác, nhưng hiện nay được coi là một bệnh lý riêng biệt.

Hình ảnh chụp cho thấy bệnh nhân bị viêm tuỷ ngang. Ảnh: Khoa Nội 4, BV Việt Tiệp Hải Phòng.
Cơ chế của bệnh viêm tủy ngang thường không rõ ràng, nhưng một số trường hợp diễn biến sau nhiễm virus hoặc tiêm chủng, gợi ý cơ chế tự miễn. Viêm thường có xu hướng lan tỏa tại một hoặc nhiều mức tủy, ảnh hưởng đến tất cả các chức năng tủy sống.
2. Nguyên nhân bệnh viêm tủy ngang cấp
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Lượng - Trưởng Đơn vị Lão khoa, Phó Trưởng Khoa Cán bộ (Nội 4), Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, nguyên nhân chính xác của bệnh viêm tủy cắt ngang vẫn chưa được biết rõ.
Các triệu chứng của viêm tủy ngang cấp tính có thể bao gồm đau ở cổ, lưng hoặc đầu.
Bệnh nhân có cảm giác đè nặng, ép chặt tại vùng ngực hoặc bụng, kèm theo yếu, tê và cảm giác kiến bò tại bàn chân và cẳng chân.
Triệu chứng tiểu khó đi hết xuất hiện trong vòng từ vài giờ đến vài ngày. Các thiếu hụt thần kinh có thể tiến triển trong một vài ngày trước khi đạt tình trạng rối loạn vận động cảm giác cắt ngang hoàn toàn, gây liệt, mất cảm giác dưới mức tổn thương, rối loạn cơ tròn.
Đôi khi, bệnh nhân không có rối loạn cảm giác tư thế và cảm giác rung.
Viêm tủy cắt ngang đôi khi tái phát ở bệnh nhân xơ cứng rải rác, lupus ban đỏ hệ thống hoặc hội chứng kháng phospholipid.
Đôi khi không tìm ra nguyên nhân, tuy nhiên hầu hết các trường hợp bị viêm tủy ngang cấp là do:
Mắc bệnh viêm tự miễn ở hệ thần kinh trung ương: viêm não tủy cấp tính lan tỏa, viêm tủy thị thần kinh, xơ cứng rải rác,... Rối loạn tự miễn hệ thống và rối loạn viêm: bệnh Behcet, viêm cột sống dính khớp, lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng Sjogren, sarcoidosis,... Nhiễm trùng: do nấm, virus, vi khuẩn, ký sinh trùng. Ung thư. Hội chứng cận u.
Với trường hợp bị viêm tủy cắt ngang nếu không rõ nguyên nhân sẽ gọi là viêm tủy cắt ngang vô căn.
3. Triệu chứng bệnh viêm tủy ngang cấp
Triệu chứng bệnh viêm tủy cắt ngang thường diễn tiến trong khoảng thời gian vài giờ hoặc vài ngày, có một số ít bệnh nhân bị triệu chứng kéo dài đến vài tuần.
Thông thường, các triệu chứng viêm tủy cắt ngang sẽ ảnh hưởng đến cả hai bên cơ thể tại vùng tủy sống bị tổn thương, một số ít trường hợp chỉ bị ở một bên, các triệu chứng điển hình là:
- Đau: cơn đau đột ngột ở lưng dưới, có thể tiến triển đau buốt lan xuống chân, tay hoặc quanh bụng, quanh ngực. Mức độ đau ở mỗi người tùy thuộc vào mức độ tổn thương ở tủy sống.
- Rối loạn cảm giác: cảm thấy lạnh, ngứa ran, bỏng rát, tê ở vùng tủy sống bị tổn thương. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể tăng nhạy cảm với nhiệt độ quá lạnh hoặc quá nóng, nhạy cảm khi tiếp xúc với quần áo nên có cảm giác giống như đang bị một vật gì đó quấn chặt vào chân, vào bụng, vào ngực.
- Yếu tay hoặc chân người bệnh có cảm giác nặng ở chân nên thường lê một chân, rất dễ bị vấp ngã. Hoặc cũng có trường hợp bị tê yếu hoặc liệt chân tay.
- Ruột và bàng quang gặp vấn đề bất thường, điển hình như: đi tiểu không tự chủ táo bón, khó tiểu tiện, tiểu nhiều lần,...
4. Cách chẩn đoán và điều trị viêm tủy ngang cấp
4.1 Chẩn đoán bệnh
Để có căn cứ chẩn đoán chính xác bệnh viêm tủy cắt ngang, bác sĩ thường thực hiện các kiểm tra sau:- Chụp MRI hoặc chụp CT-Scanner: là chẩn đoán hình ảnh cung cấp hình ảnh chi tiết bên trong cơ thể để bác sĩ tìm kiếm bất thường đang ảnh hưởng đến thần kinh, điển hình như: trượt đĩa đệm, khối u, thu hẹp tủy sống.
- Chọc tủy sống: người bệnh sẽ được lấy lấy một mẫu chất lỏng quanh não và tủy sống để gửi đến phòng xét nghiệm phân tích. Nếu quá trình phân tích mẫu bệnh phẩm tìm thấy sự tăng lên bất thường của một số loại protein nhất định hay tế bào bạch cầu chống lại bệnh tật thì đây có thể là dấu hiệu nhiễm trùng.
- Xét nghiệm máu: nhằm mục đích tìm kiếm dấu hiệu của một dạng viêm tủy khác, HIV, lupus,... để bác sĩ có căn cứ đánh giá viêm tủy cắt ngang có phải là hệ quả của một bệnh liên quan nào đó hay không. Xét nghiệm máu cũng có tác dụng loại trừ nguyên nhân nhiễm trùng, cận ung thư, tự miễn.
Có một số bệnh nhân chọc tủy sống và chụp MRI cho kết quả bình thường nhưng nếu vẫn nghi ngờ bác sĩ có thể yêu cầu kiểm tra lại sau khoảng 5 - 7 ngày.
Hiệu quả điều trị viêm tủy cắt ngang phụ thuộc rất nhiều vào nguyên nhân gây nên bệnh. Nếu được điều trị tích cực, hầu hết các trường hợp bị viêm tủy cắt ngang có thể hồi phục sau 3 tháng đầu. Mức độ hồi phục tối thiểu là một phần chức năng.
Diễn tiến của bệnh viêm tủy cắt ngang tương đối khó dự đoán, tiên lượng đáp ứng điều trị cũng phải dựa vào nguyên nhân. Vì thế, ngay khi có dấu hiệu nghi ngờ, người bệnh nên thăm khám bác sĩ chuyên khoa để được điều trị đúng hướng càng sớm càng tốt. Đây cũng là cách giúp người bệnh đạt được hiệu quả cao nhất trong mục đích điều trị bệnh lý này.
4.2 Điều trị bệnh
Hiện nay vẫn chưa có phương thức điều trị hữu hiệu cho các bệnh nhân viêm tuỷ sống như viêm tuỷ ngang. Các phương pháp điều trị chỉ nhằm giảm bớt các triệu chứng phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của ảnh hưởng hệ thần kinh.
Có các phương pháp điều trị như sau:
Liệu pháp điều trị bắt đầu khi lần đầu tiên người bệnh trải qua các triệu chứng thường là kê toa Corticosteroids trong suốt những tuần đầu tiên. Sau liệu pháp ban đầu, để điều trị được viêm tuỷ ngang thì quan trọng nhất là duy trì chức năng cơ thể người bệnh để hy vọng sự tự hồi phục hoàn toàn hoặc một phần của hệ thần kinh. Một số trường hợp phải dùng máy hô hấp để hỗ trợ người bệnh.
Người bệnh có biểu hiện cấp tính thường được điều trị trong các bệnh viện hoặc cơ sở phục hồi chức năng để ngăn ngừa hoặc giảm đau ở người bệnh tê liệt. Khi người bệnh có các dấu hiệu phục hồi khả năng điều khiển các chi, liệu pháp vật lý được áp dụng để cải thiện sức khỏe của cơ, phối hợp động tác và hàng loạt những cử động khác.

Viêm tuỷ ngang thường bắt đầu trong khoảng từ 2 - 12 tuần từ thời điểm những triệu chứng đầu tiên xảy ra và kéo dài đến tận 2 năm. Ảnh minh hoạ
Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Lượng cũng đưa ra 1 trường hợp bệnh nhân mắc viêm tuỷ ngang, được bệnh viện điều trị thành công.
Ca bệnh là nữ giới 30 tuổi xuất hiện triệu chứng mệt mỏi, đau tức nhẹ vùng ngang ngực, giảm cảm giác, kèm tê bì chân. Sau 3 ngày, biểu hiện này không cải thiện, người bệnh được giới thiệu đến khám tại Khoa Nội 4 - Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp.
Sau khi thăm khám nhận định tổn thương sơ bộ nghĩ đến viêm tủy ngang. Xét nghiệm chụp cộng hưởng từ cột sống được tiến hành đánh giá mức độ tổn thương tại khoanh tủy C7 và D4. Xét nghiệm máu và dịch não tủy được thực hiện ngay nhằm tìm nguyên nhân gây bệnh. Một số tác nhân ban đầu được nghĩ đến có thể do vi khuẩn, vi rút hoặc yếu tố tự kháng thể IgG kháng MOG (glycoprotein myelin oligodendrocyte). Bên cạnh đó yếu tố cơ bản cũng được chú ý, như: tìm trực khuẩn lao; xét nghiệm tốc độ máu lắng (ESR), protein phản ứng C (CRP); kháng thể kháng nhân,vitamin B12, folate, kẽm hoặc đồng, chụp X-quang ngực, …
Thực tế cần phân biệt viêm tủy ngang với một số bệnh lý như đau lưng cấp, đau thần kinh tọa, viêm đa rễ và dây thần kinh cấp tính (Hội chứng Guillain-Barré có thể được phân biệt vì nó không khu trú thành một đoạn cột sống cụ thể).
Nhìn chung, bệnh tiến triển càng nhanh, tiên lượng càng nặng. Triệu chứng đau gợi ý tình trạng viêm nhiều. Khoảng 1/3 bệnh nhân hồi phục, một phần ba vẫn còn liệt và rối loạn tiểu tiện, và 1/3 còn lại bất động tại giường và tiểu không tự chủ, Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Lượng nói.
Viêm tuỷ ngang thường bắt đầu trong khoảng từ 2 - 12 tuần từ thời điểm những triệu chứng đầu tiên xảy ra và kéo dài đến tận 2 năm. Tuy nhiên nếu không có cải thiện gì trong vòng từ 3-6 tháng thì khả năng hồi phục hồi đáng kể thường khó xảy ra. Có đến hơn 30% các trường hợp viêm tuỷ ngang không hồi phục và phải sử dụng xe lăn hay người trợ giúp các công việc thường ngày trong suốt quãng đời còn lại.
Do đó, để bảo vệ sức khỏe và ngăn ngừa biến chứng, khi phát hiện những triệu chứng viêm tủy ngang, người bệnh cần đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên khoa thăm khám.
Mời quý vị xem thêm video dưới đây:
Cấp cứu vì nhiễm khuẩn nguy hiểm sau bữa cơm thịt lợn - SKĐS