Các loại viêm nội nhãn
Viêm nội nhãn gồm viêm nội nhãn ngoại sinh và viêm nội nhãn nội sinh. Viêm nội nhãn ngoại sinh do các tác nhân vi sinh vật như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng ở bên ngoài gây bệnh trực tiếp qua các đường vào tại mắt như sau chấn thương rách nhãn cầu hoặc sau phẫu thuật, còn viêm nội nhãn nội sinh được gây ra bởi các vi sinh vật lan tràn từ các cơ quan khác (ổ nguyên phát) đến mắt qua đường máu. Viêm nội nhãn nội sinh là hình thái ít gặp, trên thế giới chiếm khoảng 2 – 8% tổng số viêm nội nhãn nói chung. Ở Việt Nam, tỷ lệ này chiếm khoảng 0,418% trong tổng số bệnh nhân nằm điều trị tại Bệnh viện Mắt Trung ương hàng năm, nhiều nhất vào mùa thu-đông.
Khám mắt phát hiện bệnh viêm nội nhãn.
Viêm nội nhãn nội sinh ở trẻ em thường xuất hiện trên những trẻ có bệnh lý suy giảm miễn dịch hoặc có các bệnh lý toàn thân kèm theo như viêm cơ tim, viêm đường hô hấp trên, viêm đường ruột, viêm đường tiết niệu… và có thể gặp trên những trẻ hoàn toàn khỏe mạnh.
Nguyên nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh viêm nội nhãn nội sinh trên trẻ em rất đa dạng. Thường gặp nhất là vi khuẩn, gồm cả vi khuẩn gram ( ) và gram (-). Viêm nội nhãn trên trẻ sơ sinh thường gặp do trực khuẩn mủ xanh, phế cầu và cầu khuẩn nhóm B, trong khi đó viêm nội nhãn trên trẻ lớn thường gặp do tụ cầu vàng hay não mô cầu. Nấm Candida là tác nhân thường gặp trong viêm nội nhãn nội sinh ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn, tác nhân này thường gặp trên những bệnh nhân có dùng thuốc đường tĩnh mạch kéo dài hoặc những đối tượng tiêm chích ma túy hoặc HIV/AIDS. Ngoài ra, còn có một số tác nhân gây bệnh hiếm gặp là ký sinh trùng như T. gondii, T. carnis, ấu trùng sán… hay virus như Herpes, Zonna, virus cự bào... gây bệnh.
Dấu hiệu nhận biết
Trẻ em bị viêm nội nhãn cấp tính có các biểu hiện như đột ngột mắt đỏ, sợ ánh sáng, chói mắt, đau nhức mắt nhiều mức độ, nhìn mờ. Mi mắt có thể sưng nề và đỏ. Có thể có mủ tiền phòng (ngấn trắng ở diện lòng đen của mắt). Bên cạnh đó, trẻ có thể bị sốt, buồn nôn, ho, đau đầu... Khám bệnh trực tiếp tại mắt thấy có cương tụ kết mạc toàn bộ, giác mạc phù, mủ tiền phòng, đồng tử có thể co nhỏ và dính, ánh đồng tử kém hồng hoặc vàng, không thể soi được võng mạc hoặc nếu soi được có thể các viêm mạch máu và viêm hắc võng mạc.
Biện pháp điều trị
Điều trị viêm nội nhãn nội sinh ở trẻ em gặp rất nhiều khó khăn do tính chất cấp tính, nặng nề của bệnh và cấu trúc nhãn cầu ở trẻ em đang trong quá trình hoàn thiện về giải phẫu và sinh lý. Quá trình viêm gây ra đục các môi trường trong suốt của mắt (giác mạc, thể thủy tinh, dịch kính...), gây tổn hại lớp võng mạc thần kinh cảm thụ làm phá vỡ đường dẫn truyền, gây tổn hại không hồi phục chức năng thị giác, mất thị lực và thậm chí phải khoét bỏ nhãn cầu. Nguyên tắc điều trị cần tích cực ngay từ đầu nhằm điều trị ổ nhiễm trùng nguyên phát và tại mắt. Phác đồ điều trị viêm nội nhãn hiện nay là: tiêm kháng sinh hoặc kháng sinh chống nấm toàn thân (tĩnh mạch), tiêm kháng sinh nội nhãn (tiêm thẳng thuốc mắt), tra thuốc tại mắt và chỉ định phẫu thuật cắt dịch kính khi bệnh nặng ngay từ đầu, khi điều trị nội khoa không đỡ hoặc bệnh vẫn tiếp tục tiến triển. Cắt dịch kính giúp loại bỏ tác nhân gây bệnh, độc tố đồng thời làm cho thuốc kháng sinh, thuốc chống viêm khuếch tán tốt hơn. Bên cạnh đó, các biến chứng của phẫu thuật gồm có bong võng mạc, đục thể thủy tinh, tăng sinh xơ dịch kính võng mạc, tăng nhãn áp… Vì vậy, trên những trẻ dưới 16 tuổi có viêm nội nhãn nội sinh thì vai trò của phẫu thuật cắt dịch kính để loại bỏ tác nhân gây bệnh, phục hồi giải phẫu và phục hồi chức năng thị giác cho trẻ vẫn còn là vấn đề cần tranh luận.
Tiên lượng kết quả điều trị viêm nội nhãn nội sinh trên trẻ em phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tác nhân gây bệnh, thời gian bị bệnh, bệnh toàn thân kèm theo, tuổi bị bệnh, tính chất cấp tính của bệnh, các tổn thương tại mắt như mờ giác mạc, các tổn hại trên võng mạc...
Viêm nội nhãn nội sinh ở trẻ em là một bệnh lý phức tạp gây tổn hại nặng nề về giải phẫu và chức năng thị giác.Điều quan trọng nhất là trẻ phải được chẩn đoán và điều trị kịp thời, giúp trẻ có thể hồi phục được chức năng thị giác cũng như hạn chế tối đa những biến chứng, giảm nguy cơ mù lòa cho trẻ.