Viêm màng ngoài tim co thắt nguy hiểm thế nào?

18-02-2020 21:37 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Bệnh viêm màng ngoài tim co thắt là hậu quả của quá trình xơ hóa. Quá trình viêm mạn tính do nhiều nguyên nhân gây ra làm tổn thương dày và dính màng ngoài tim.

Đây là tình trạng y khoa nghiêm trọng, có thể dẫn tới suy tim, tàn phế, thậm chí tử vong.

Khi đã bị viêm màng ngoài tim co thắt, trái tim bị màng ngoài tim cứng chắc bao bọc, làm hạn chế tim giãn ra trong thì tâm trương, tăng các áp lực trong buồng tim và làm mất tương đồng giữa áp lực trong các buồng tim và áp lực của lồng ngực. Do tăng áp lực trong buồng tim và giảm sự giãn của tim thì tâm trương làm hạn chế sự đổ về của máu tĩnh mạch chủ và tĩnh mạch phổi, gây ra triệu chứng suy tim ứ huyết của cả tim bên phải và bên trái. Nguy hiểm nhất là tuy bệnh nhân bị bệnh nhưng lại không được chẩn đoán ra bệnh vì không được nghĩ đến nên đã dẫn tới hậu quả nặng nề cho bệnh nhân.

Vì sao lại bị viêm màng ngoài tim co thắt ?

Khoa học đã biết đến một số nguyên nhân gây viêm màng ngoài tim co thắt gồm: nhiễm khuẩn lao, vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng, trong đó lao là nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng ngoài tim co thắt. Chấn thương do phẫu thuật tim có tràn máu màng tim là yếu tố thuận lợi dẫn đến viêm màng ngoài tim co thắt sau đó. Do chạy tia xạ: đây là biến chứng muộn của xạ trị dẫn đến viêm màng ngoài tim co thắt. Viêm nhiễm hoặc rối loạn miễn dịch trong các bệnh thấp tim, lupus ban đỏ, sarcoidose.

Do các bệnh ung thư vú, phổi, hạch lympho, u sắc tố, u trung biểu mô. Không rõ nguyên nhân.

Lao là nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng ngoài tim co thắt.

Lao là nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng ngoài tim co thắt.

Lao là nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng ngoài tim co thắt.

Dấu hiệu nhận biết

Những dấu hiệu sớm của viêm màng ngoài tim co thắt thường không đặc hiệu như ngất xỉu, mệt và giảm khả năng khi gắng sức. Thời gian sau đó bệnh nhân thường có các triệu chứng của suy tim trái như khó thở khi gắng sức, khó thở về đêm. Giai đoạn nặng bệnh nhân sẽ thấy các dấu hiệu giống như suy tim phải: phù ngoại biên, căng tức bụng và cổ trướng. Khám thấy tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan tĩnh mạch  cổ dương tính. Nhiều bệnh nhân có dấu hiệu mạch đảo của Kussmaul (hít sâu vào lại làm giảm độ căng to của tĩnh mạch cổ). Tuy nhiên dấu hiệu này có độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu thấp vì có thể gặp trong các trường hợp phì đại thất phải và nhồi máu cơ tim thất phải. Nguyên nhân của các hiện tượng này là do sự giãn nhanh của tâm thất trong thời kỳ đầu tâm trương. Nghe tim thường thấy tiếng tim mờ do màng ngoài tim dày. Có khi nghe thấy tiếng gõ của màng ngoài tim ngay ở đầu tâm trương. Trường hợp ứ trệ nhiều, có thể thấy phù phổi với các ran ẩm xuất hiện. Gan to, trường hợp nặng có thể dẫn đến xơ gan tim với bụng cổ trướng rõ. Phù hai chi dưới, sau đó có thể dẫn đến phù toàn thân.

Chụp Xquang thấy màng ngoài tim canxi hóa trên phim chụp nghiêng và hay thấy ở vị trí của thất phải và rãnh nhĩ thất; tràn dịch màng phổi là dấu hiệu hay gặp; giãn nhĩ phải và nhĩ trái; hiếm thấy phù phổi. Siêu âm tim là phương pháp hữu hiệu nhất để chẩn đoán và theo dõi tràn dịch màng ngoài tim.

Lời khuyên thầy thuốc

Phẫu thuật cắt màng ngoài tim là kỹ thuật được lựa chọn. Trên  90% các trường hợp có cải thiện triệu chứng đáng kể sau phẫu thuật. Tỷ lệ tử vong trong và ngay sau mổ từ 5 - 20% nên cần thận trọng cân nhắc. Việc mổ sớm cho các bệnh nhân là tốt hơn chứ không đợi đến khi thể trạng bệnh nhân đã bị suy sụp do bệnh diễn biến kéo dài.

Vì vậy khi có biểu hiện nghi ngờ bệnh nhân cần được chẩn đoán và điều trị sớm. Đối với một số bệnh cần điều trị dứt điểm như lao, viêm nhiễm do vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng, các bệnh thấp tim, lupus ban đỏ, sarcoidose, ung thư vú, ung thư phổi, u sắc tố... để tránh biến chứng.


ThS. Nguyễn Mạnh
Ý kiến của bạn