Mới đây nhất là bệnh nhân (BN) 47 tuổi tại Quảng Ninh bị mảnh vôi vữa bắn vào mắt trái gây đau, cộm mắt nhưng do chủ quan nên bị loét giác mạc do trực khuẩn mủ xanh tấn công, đối diện nguy cơ thủng giác mạc.
Nguyên nhân gây viêm loét giác mạc nhiễm khuẩn
Nguyên nhân gây bệnh được xếp thành 4 nhóm chính, đó là: vi khuẩn: các loại vi khuẩn gram ( ) hay gặp như tụ cầu, liên cầu, phế cầu, các loại vi khuẩn gram (-) như trực khuẩn mủ xanh...; Nấm - các loại nấm sợi là chủ yếu aspergillus, furasium, cephalosporum. Virus (chủ yếu thuộc họ Herpes): H.simplex type 1, H. varicell-zoster; Ký sinh trùng: acanthamoeba, nocardia.
Điều kiện thuận lợi khiến mắc viêm loét giác mạc nhiễm khuẩn đó là chấn thương mắt: thường sau các vi chấn thương, bản thân người bệnh không để ý hoặc không biết, sau khi bụi vào mắt, nước bẩn vào mắt, kể cả nước mưa. Đặc biệt, các chấn thương từ nông nghiệp như hạt thóc, rơm rạ, lá cây... rất hay gây viêm loét giác mạc.
Các bệnh lý sẵn có tại mắt như: lông siêu, lông quặm, hở mi do liệt dây thần kinh số VII, khuyết mi sau mổ u mi... Bệnh lý kết giác mạc như sẹo giác mạc, sạn vôi, khô mắt, mất cảm giác giác mạc.
Trên một số cơ địa bệnh lý toàn thân đặc biệt như: suy dinh dưỡng thiếu vitamin A ở trẻ em, hội chứng suy giảm miễn dịch, bệnh lý chuyển hóa như bệnh đái tháo đường..
Các phương pháp điều trị không đúng, lạm dụng thuốc: Các phương pháp điều trị dân gian không khoa học như đắp lá, đắp ếch nhái vào mắt có thể gây viêm loét giác mạc. Ngoài ra, việc lạm dụng kháng sinh và thuốc chống viêm nhóm corticoid là một nguy cơ cao gây viêm loét giác mạc (hiện nay, các chế phẩm tra mắt có chứa thành phần corticoid chưa được kiểm soát chặt chẽ).
Hình ảnh loét giác mạc.
Dấu hiệu nhận biết
Sau khi bị chấn thương mắt 1-2 ngày, BN có thể thấy mắt cộm, kích thích chảy nước mắt, chói mắt khi ra nắng, nhìn mờ.
Người bệnh nhìn mờ tăng dần, một số trường hợp nhìn mờ nhanh chóng kèm theo mắt đau nhức nhiều, thậm chí thị lực chỉ còn phân biệt được sáng - tối.
Khám bệnh có thể thấy mi mắt sưng nề, mắt đỏ do kết mạc cương tụ mạnh, giác mạc mất tính trong suốt, có ổ loét hoặc ổ viêm mờ đục, có thể ít hoặc nhiều xuất tiết mủ, bờ ổ loét có thể trong đều hoặc nham nhở tùy nguyên nhân, có thể thấy thâm nhiễm sâu trong nhu mô giác mạc hay mủ tiền phòng. Một số trường hợp nặng có thể có biến chứng thủng giác mạc, phòi tổ chức nội nhãn.
Khi đáp ứng điều trị, viêm loét giác mạc để lại sẹo giác mạc, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà gây mờ mắt ở các mức độ khác nhau: nhẹ có thể là sẹo như màng khói, nặng thường là sẹo dày trắng đục, kèm theo tăng nhãn áp.
Trong trường hợp diễn biến nặng, viêm loét giác mạc gây thủng giác mạc, viêm loét toàn bộ giác mạc, viêm nội nhãn hoặc viêm toàn nhãn.
Điều trị và phòng bệnh
Cần xác định nguyên nhân gây viêm loét giác mạc để điều trị. Nguyên tắc là dựa vào nuôi cấy kháng sinh đồ để điều trị đúng tác nhân. Trong thực hành điều trị, bác sĩ tại bệnh viện mắt sẽ dựa vào hình thái tổn thương để điều trị sớm cho BN.
Cần nâng cao ý thức phòng bệnh viêm loét giác mạc vì đây là một bệnh nặng gây mù, ngay cả khi điều trị khỏi cũng thường để lại di chứng nặng nề.
Khi bị bụi hoặc nước bẩn vào mắt có thể chớp mắt vào cốc nước sạch, tránh day dụi mắt; nếu không được, cần đến cơ sở y tế có chuyên khoa mắt để lấy bụi, gắp dị vật và dùng thuốc điều trị các tổn thương giác mạc.
Thuốc kháng sinh nhỏ mắt cần được thầy thuốc kê đơn, người bệnh không tự mua. Các thuốc mắt có chứa corticoid phải theo chỉ định của bác sĩ. Trong quá trình sử dụng vẫn cần phải theo dõi.
Trẻ em cần đảm bảo ăn uống đủ chất, uống thêm vitamin A như khuyến cáo của ngành y tế để tránh bệnh khô mắt, loét giác mạc do thiếu vitamin A. Các bệnh lý tại mắt cần phát hiện và điều trị kịp thời.