Nguyên nhân do đâu?
Ai cũng có thể mắc viêm khớp sinh mủ, tuy nhiên những người sẵn mắc các bệnh về khớp như viêm khớp, gút hay Lupus, có tiền sử phẫu thuật khớp, mắc một số bệnh về da, có vết thương hở, có hệ miễn dịch yếu,... có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Phần lớn các trường hợp mắc bệnh do vi khuẩn lan truyền theo đường máu xâm nhập vào khớp. Có thể theo đường kế cận từ nhiễm khuẩn xương hoặc phần mềm cạnh khớp hoặc nhiễm khuẩn trực tiếp sau chấn thương, sau tiêm khớp hoặc sau phẫu thuật. Trong trường hợp nhiễm khuẩn theo đường máu, vi khuẩn từ các mao mạch màng hoạt dịch khớp xâm nhập vào màng hoạt dịch, bám dính tại chỗ gây phản ứng tập trung bạch cầu trung tính sau ít giờ. Trong vòng 48 giờ, sụn khớp bị tổn thương do vi khuẩn kích thích các tế bào sụn giải phóng các protease, các cytokin, do sự xâm nhập trực tiếp của vi khuẩn và các tế bào viêm vào sụn. Màng hoạt dịch tăng sinh tạo thành hình ảnh màng máu (pannus) phủ trên bề mặt sụn khớp. Vi khuẩn cũng gây viêm tắc các mạch máu màng hoạt dịch.
Ai bị viêm mủ khớp?
Viêm mủ khớp thường gặp nhất là ở trẻ em, trẻ đẻ non, người già và những người bị ức chế miễn dịch. Nói chung, bệnh này thường xảy ra ở một khớp, khớp gối, khớp háng, nhưng có thể xảy ra ở bất kỳ khớp nào. Trẻ em có thể bị ở nhiều khớp. Cần lưu ý rằng nhiễm trùng khớp háng có thể đau ở khớp gối và ngược lại. Ở người lớn thường xảy ra ở khớp khuỷu tay hoặc một khớp chịu lực như khớp gối. Khoảng 20% bệnh nhân có triệu chứng tại nhiều hơn một khớp. Nhiễm trùng đa khớp thường gặp ở trẻ em, điển hình ở khớp vai, khớp gối, khớp háng.
Hình ảnh mủ trong khớp gối bị viêm.
Dấu hiệu nhận biết
Vị trí tổn thương: 90% bệnh nhân có tổn thương một khớp, trong đó khớp gối hay gặp nhất, ít gặp hơn là các khớp háng, vai, cổ tay, cổ chân, khuỷu tay... Các khớp nhỏ của bàn tay hay bàn chân thường gặp trong những trường hợp tiêm tại chỗ trực tiếp hoặc do bị động vật cắn. Trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc truyền đường tĩnh mạch, tỷ lệ viêm khớp tại cột sống, khớp cùng chậu, khớp ức đòn cao hơn viêm các khớp ngoại biên. Viêm nhiễm khuẩn nhiều khớp hay gặp nhất ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Triệu chứng tại khớp: Viêm khớp biểu hiện bởi các triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau. Có thể tràn dịch khớp, co cơ, hạn chế vận động. Tuy nhiên, trong trường hợp khớp nằm ở vị trí sâu như khớp háng hoặc khớp cùng chậu thì khó phát hiện sưng khớp. Có thể gặp viêm mô tế bào, viêm bao thanh dịch, cốt tủy viêm cấp với các triệu chứng lâm sàng tương tự. Tuy nhiên các bệnh cảnh trên có thể phân biệt với viêm khớp nhiễm khuẩn ở đặc điểm thường bệnh nhân không hoặc ít hạn chế vận động khớp.
Triệu chứng ngoài khớp: Hội chứng nhiễm khuẩn với sốt cao thường trên 38oC, có khi đến 40oC hoặc hơn, có khi rét run. Tuy nhiên, sốt cao không thường gặp ở những bệnh nhân già yếu, suy giảm miễn dịch hoặc đang mắc bệnh viêm khớp dạng thấp.
Ngoài ra, có thể chẩn đoán bệnh dựa vào các triệu chứng cận lâm sàng như tế bào máu ngoại biên, chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính, soi tươi, xét nghiệm dịch khớp... Thủ thuật dẫn lưu mủ ở tổn thương viêm khớp sinh mủ.
Có thể nhầm lẫn
Do bệnh xảy ra ở các khớp nên dễ nhầm với các bệnh trong đó có viêm khớp do gút cấp, viêm khớp do lao, viêm khớp do virut, nấm, ký sinh trùng,... Tuy nhiên, viêm khớp do gút cấp triệu chứng viêm rầm rộ, sưng nóng đỏ đau đột ngột, thường vị trí ở các khớp chi dưới, đặc biệt bàn ngón chân. Điều đặc biệt, tiền sử thường có những đợt viêm tương tự, thời gian kéo dài không quá 2 tuần, thường khởi phát sau bữa ăn thịnh soạn. Điều trị bằng colchicin hoặc chống viêm giảm đau không steroid đáp ứng nhanh.
Trường hợp viêm khớp do lao thì triệu chứng viêm kém rầm rộ, sưng nóng đỏ đau ít. Triệu chứng toàn thân kín đáo (sốt nhẹ về chiều, gầy sút, nổi hạch ngoại biên...). Để chẩn đoán chính xác, các bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân làm các xét nghiệm như: xét nghiệm tế bào máu ngoại vi, xét nghiệm dịch khớp, cấy máu tìm vi khuẩn gây bệnh và các chẩn đoán hình ảnh như: chụp Xquang, siêu âm khớp, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ...
Cần điều trị sớm
Người bệnh cần được chẩn đoán bệnh sớm, dùng ngay kháng sinh đường tĩnh mạch, dẫn lưu mủ khớp khi cần thiết, bất động khớp tương đối có thể ngăn chặn được tình trạng hủy hoại khớp. Thực hiện ngay việc cấy máu, lấy dịch khớp, làm xét nghiệm dịch khớp nhanh bằng phương pháp soi tươi nhuộm gram tìm vi khuẩn. Căn cứ kết quả soi tươi nhuộm gram kết hợp với các yếu tố nguy cơ dự đoán chủng vi khuẩn, từ đó lựa chọn ngay kháng sinh thích hợp - trước khi có kết quả cấy máu hoặc dịch khớp (thường có sau 3 - 5 ngày hoặc lâu hơn tùy loại vi khuẩn). Lưu ý cần tránh việc sử dụng tiêm kháng sinh trực tiếp vào khớp vì tác dụng không tốt hơn, thậm chí có thể gây nên tình trạng viêm khớp do tinh thể thuốc.
Thực hiện vô khuẩn tuyệt đối khi làm các thủ thuật, phẫu thuật tiến hành tại khớp. Điều trị tốt các nhiễm khuẩn tại các cơ quan khác, đặc biệt tại da, phần mềm và xương.