Viêm đường tiết niệu do vi khuẩn, triệu chứng và các thuốc điều trị

03-12-2021 09:50 | An toàn dùng thuốc

SKĐS - Viêm đường tiết niệu nếu không được điều trị đúng, kịp thời có thể gây nhiều biến chứng. Có những thuốc nào dùng trong điều trị tình trạng này?

1. Nguyên nhân gây viêm đường tiết niệu 

Một trong những nguyên nhân gây viêm đường tiết niệu là vi khuẩn. Các vi khuẩn gây bệnh, trong đó vi khuẩn gram âm chiếm đa số (trên 90%), thường gặp nhất là E. coli (60- 70%), sau đó là Klebsiella, P. mirabilis, Enterobacter... Các vi khuẩn gram dương ít gặp hơn, bao gồm chủ yếu là Eterococcus và Staphylococcus.

Vi khuẩn xâm nhập ngược dòng từ niệu đạo đi lên, do đó thường biểu hiện viêm niệu đạo, bàng quang trước. Ngược lại, khi vi khuẩn theo đường máu và đường bạch huyết thường gây nhiễm khuẩn nhu mô thận rồi mới ra nước tiểu gây viêm đường tiết niệu thấp.

photo-1638104260858

Các vị trí viêm đường tiết niệu.

Tuỳ theo vi khuẩn gây bệnh, vị trí nhiễm khuẩn cũng như tính chất cấp tính hay mạn tính mà triệu chứng của nhiễm khuẩn tiết niệu biểu hiện khác nhau. Nhìn chung chia thành hai nhóm là nhiễm khuẩn đường tiết niệu thấp (viêm niệu đạo, bàng quang) và viêm thận - bể thận.

2. Triệu chứng của viêm đường tiết niệu

- Nhiễm khuẩn tiết niệu thấp: Tiểu buốt, tiểu rắt, có thể đái ra máu, mủ. Khi đái ra máu, mủ ở đầu bãi thường do nhiễm khuẩn tại niệu đạo, ở cuối bãi thường do nhiễm khuẩn tại bàng quang. Biểu hiện nhiễm khuẩn toàn thân có thể gai sốt hoặc sốt rét run, cũng có khi không sốt.

- Viêm thận - bể thận: Có hai dạng là viêm thận - bể thận cấp tính và mạn tính. Trong viêm thận bể thận cấp tính, triệu chứng thường xuất hiện đột ngột, rầm rộ. Biểu hiện tại chỗ bao gồm tiểu buốt, tiểu rắt, nước tiểu có máu hoặc mủ. Đây là các triệu chứng nhiễm khuẩn tiết niệu thấp và có thể xuất hiện trước. Tuy nhiên nếu nhiễm khuẩn theo đường máu thì có thể triệu chứng viêm thận - bể thận lại xuất hiện đầu tiên. 

3. Điều trị viêm đường tiết niệu nhiễm khuẩn thế nào?

Tuỳ theo vị trí nhiễm khuẩn thấp hay cao (viêm thận - bể thận), mức độ nặng hay nhẹ, tính chất cấp tính hay mạn tính và chủng vi khuẩn gây bệnh mà có những biện pháp điều trị khác nhau. 

Nguyên tắc chung là lựa chọn kháng sinh thích hợp, tốt nhất là dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ (tức là sau khi cấy nước tiểu hoặc máu thấy vi khuẩn gây bệnh thì đánh giá mức độ nhạy cảm của vi khuẩn với một số thuốc kháng sinh, từ đó lựa chọn kháng sinh nhạy cảm nhất, dễ hấp thu, ít tác dụng phụ nhất, sẵn có và cân nhắc cả về vấn đề kinh tế); điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ khác.

Trường hợp nhiễm khuẩn tiết niệu thấp thường dùng kháng sinh đường uống kết hợp với thuốc sát khuẩn tại chỗ. Các kháng sinh thường dùng có tác dụng tốt trong nhiễm khuẩn tiết niệu thấp hiện nay như nhóm quinolon. Có rất nhiều thuốc trong nhóm này như: Norfloxacin, ofloxacin, ciprofloxacin, levofloxacin...

Kháng sinh quinolon có thể giúp dứt điểm bệnh nhanh, tuy nhiên có tác dụng phụ có thể gặp là tiêu chảy nhẹ, dị ứng ngoài da... Lưu ý không sử dụng quinolon cho phụ nữ có thai, đang cho con bú và trẻ em dưới 16 tuổi vì thuốc ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ do gây tổn thương sụn khớp.

photo-1638104264698

Tùy vị trí viêm đường tiết niệu sẽ được điều trị khác nhau.

Các nhóm kháng sinh khác như beta lactam (bao gồm penicillin, amoxicillin, cloxacillin, cephalosporin...) cũng có tác dụng tốt đối với viêm đường tiết niệu. Nhóm beta lactam có phổ tác dụng rộng, khá an toàn và ít tác dụng phụ, do đó có thể sử dụng cho nhiều bệnh nhân như người già, phụ nữ, trẻ em... Nhưng hiện nay do tình trạng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn, nên kháng sinh nhóm beta lactam điều trị kém hiệu quả hơn.

Một kháng sinh thông thường, rẻ tiền, khá thông dụng hiện nay là sulfamethoxazol cũng có tác dụng trong một số trường hợp nhiễm khuẩn tiết niệu nhẹ, tuy nhiên tỷ lệ vi khuẩn kháng kháng sinh này hiện nay cũng khá cao.

Thời gian sử dụng kháng sinh tuỳ thuộc vào chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, căn cứ từng trường hợp cụ thể mà có thể dùng liều duy nhất hay dùng kéo dài.

Trường hợp viêm thận - bể thận cấp hay đợt cấp của viêm thận - bể thận mạn cần dùng kháng sinh đường tĩnh mạch liều cao và nên phối hợp ít nhất hai kháng sinh. Thời gian dùng kháng sinh cũng dài hơn trong điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu thấp, ít nhất cũng dùng trong 14 ngày.

Lựa chọn thuốc tốt nhất theo kháng sinh đồ, tuy nhiên do kháng sinh đồ cho kết quả muộn hoặc cấy không mọc vi khuẩn nên cần cho kháng sinh sớm theo kinh nghiệm, dựa vào vi khuẩn hay gặp, tuổi mắc bệnh, các bệnh lý kèm theo... Các thuốc có thể dùng như quinolon kết hợp nhóm beta lactam; hoặc cephalosporin kết hợp hoặc thuốc nhóm quinolon uống hay truyền tĩnh mạch...

Các biện pháp điều trị hỗ trợ khác trong bệnh nhiễm khuẩn tiết niệu bao gồm uống nhiều nước; dùng thuốc hạ sốt giảm đau; dinh dưỡng nâng cao thể trạng.

Ngoài ra cần điều trị các yếu tố thuận lợi như điều trị sỏi tiết niệu (uống thuốc tan sỏi, tán sỏi qua siêu âm, phẫu thuật lấy sỏi...). Điều trị u phì đại lành tính tiền liệt tuyến, điều trị các dị dạng đường niệu, điều trị các bệnh kèm theo (nếu có).

Điều trị các biến chứng của bệnh như suy thận, thiếu máu, tăng huyết áp...

Nhiễm khuẩn tiết niệu là một bệnh khá thường gặp, nếu phát hiện sớm, điều trị tích cực có thể khỏi hẳn không để lại di chứng. Trường hợp ngược lại nếu phát hiện muộn, điều trị không đúng có thể dẫn đến suy thận mạn tính là bệnh có tiên lượng xấu.

Mời độc giả xem thêm video:

Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19

TS.Bùi Hải
Ý kiến của bạn