Nếu không được điều trị, lâu dần các khớp sẽ bị dính và cứng, biến dạng cột sống… ảnh hưởng xấu tới chất lượng sống của bệnh nhân.
Biểu hiện của bệnh
Dấu hiệu sớm nhất thường là đau tại cột sống thắt lưng hoặc vùng lưng - thắt lưng. Đau kiểu viêm, kèm theo hiện tượng cứng cột sống; viêm khớp cùng chậu biểu hiện bởi hiện tượng đau tại vùng mông, một hoặc hai bên; viêm khớp thể điển hình, thường biểu hiện viêm các khớp gốc chi đối xứng hai bên (khớp háng, khớp gối chiếm 20%). Đôi khi giai đoạn sớm chỉ biểu hiện viêm một khớp, lúc này cần chẩn đoán phân biệt với viêm khớp nhiễm khuẩn, đặc biệt là lao khớp; viêm các điểm bám tận của gân thường gặp nhất tại gân Achilles, cân gan chân; viêm kết mạc mắt và các triệu chứng tiêu hóa gặp khoảng 5-10% (tiêu chảy, đau bụng, xuất huyết).
Bệnh tiến triển chậm song có xu hướng dính khớp, dẫn đến hạn chế cử động cột sống do hình thành cầu xương giữa các thân đốt sống, dính các khớp mỏm phía sau và vôi hoá các dây chằng cột sống.
Hình ảnh bệnh viêm cột sống dính khớp.
Cách nào để điều trị bệnh?
Điều trị bệnh với nguyên tắc chung bao gồm điều trị không dùng thuốc, điều trị nội khoa và ngoại khoa… nhằm mục đích chống viêm, giảm đau; phòng chống cứng khớp, đặc biệt là phòng chống cứng ở tư thế xấu và khắc phục dính khớp (nếu có). Tuy nhiên, không có phác đồ điều trị chung cho tất cả các bệnh nhân mà trên mỗi bệnh nhân cụ thể, bác sĩ chuyên khoa cơ xương khớp sẽ quyết định điều trị phác đồ nào.
Điều trị không dùng thuốc
Khi bệnh ở giai đoạn sớm thì có thể thực hiện những bài tập hằng ngày theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Sau khi đã thuộc các bài tập rồi thì bệnh nhân có thể tự tập tại nhà. Điều quan trọng là người bệnh cần phải nhận biết được dấu hiệu sớm của bệnh để đi khám và được hướng dẫn điều trị bằng biện pháp này một cách hiệu quả. Nếu để sang giai đoạn muộn hơn, thì ngoài việc luyện tập cần phải phối hợp với dùng thuốc.
Điều trị bằng thuốc
Thuốc chống viêm không steroid: Là lựa chọn đầu tiên chỉ định cho bệnh nhân viêm cột sống dính khớp có đau và/hoặc cứng khớp. Có thể sử dụng trong thời gian dài nếu tình trạng viêm kéo dài. Cần chú ý đến các tác dụng không mong muốn trên tim mạch, dạ dày, thận ở bệnh nhân khi điều trị thuốc chống viêm không steroid. Có thể sử dụng một trong các loại sau: celecoxib, meloxicam, diclofenac, etoricoxib…
Ngoài ra, có thể dùng paracetamol để giảm đau và thuốc giãn cơ (vì ở những bệnh nhân này thường gặp phải hiện tượng co cơ). Thuốc giãn cơ thường được chỉ định là eperisone, thiocolchicoside… Tuy nhiên, khi sử dụng các thuốc này, đặc biệt là nhóm thuốc giảm đau paracetamol cần chú ý tới liều lượng và thời gian sử dụng, nhằm tránh tác hại trên gan.
Nhóm glucocorticoid: Được sử dụng khi cần thiết. Sử dụng tiêm corticosteroid tại chỗ với bệnh nhân bị viêm các điểm bám gân hoặc các khớp ngoại biên có tình trạng viêm kéo dài. Việc tiêm này phải được thực hiện tại bệnh viện và do bác sĩ chuyên khoa thực hiện. Không khuyến cáo điều trị corticosteroid toàn thân cho bệnh này.
Thuốc thấp khớp (DMARD): như sulfasalazine, methotrexat không được chỉ định cho bệnh nhân thể cột sống đơn thuần. Sulfasalazine được chỉ định cho bệnh nhân có biểu hiện viêm khớp ngoại biên với liều thấp rồi tăng dần liều dựa vào đáp ứng lâm sàng của người bệnh, sau đó dùng liều duy trì. Lưu ý là thuốc cần phải uống sau bữa ăn để hiệu quả của thuốc được phát huy tối đa và tránh tác dụng phụ trên đường tiêu hóa.
Điều trị bằng chế phẩm sinh học kháng TNFα: Theo khuyến cáo của ASAS - Hội đánh giá viêm cột sống dính khớp quốc tế, chỉ định thuốc kháng TNF cho các thể bệnh hoạt động dai dẳng, mặc dù đã điều trị thường quy. Khi sử dụng thuốc này, bác sĩ điều trị cần tuân theo quy trình chỉ định các thuốc sinh học và bệnh nhân phải tuân thủ chặt chẽ quy trình sử dụng thuốc để mang lại hiệu quả cao trong điều trị.
Trong trường hợp bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp thể cột sống thì cần kết hợp điều trị thuốc kháng TNF với thuốc chống viêm không steroid. Không được kết hợp với nhóm DMARD, bao gồm các thuốc sulfasalazine, methotrexate.
Ngoại khoa: Khi các biện pháp điều trị nội khoa nêu trên thất bại thì tùy từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ chỉ định bằng phẫu thuật. Trong đó phẫu thuật thay khớp háng được chỉ định trong trường hợp bệnh nhân đau kéo dài, hạn chế vận động và có phá hủy cấu trúc rõ trên hình ảnh Xquang. Trước đây thường cố gắng chỉ định ở bệnh nhân lớn tuổi (ít nhất trên 50 tuổi), nhưng hiện nay với sự phát triển của khoa học y học cũng như chất liệu khớp háng nhân tạo đã được cải tiến rất nhiều nên tuổi không còn là một yếu tố cần quan tâm khi chỉ định thay khớp háng. Với bệnh nhân bị biến dạng cột sống thì sẽ được phẫu thuật chỉnh hình cột sống. Bệnh nhân viêm cột sống dính khớp có gãy đốt sống cấp tính sẽ xét chỉ định phẫu thuật thay đốt sống.
Bệnh tiến triển xu hướng dính khớp và dính cột sống dẫn đến tư thế xấu, gù lưng quá mức, viêm dính khớp háng, loãng xương và đôi khi gãy xương… làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng sống của người bệnh, do vậy cách tốt nhất là nên phòng bệnh. Mặc dù nguyên nhân gây bệnh chưa được hiểu rõ, nhưng chúng ta có thể phòng bệnh bằng cách: Tránh ẩm thấp, phòng tránh viêm nhiễm đường tiết niệu, sinh dục và viêm đường ruột; nên nằm thẳng, không nằm đệm mềm, tránh kê gối cao quá, tránh nằm võng; nên tập thể dục thường xuyên, nên bơi hoặc đi xe đạp.