Cao Sơn Đại Vương là một vị thánh huyền thoại, được thờ ở nhiều đình/đền trong cả nước, nhưng nhiều nhất vẫn là ở phía Bắc. Ngay ở TP. Móng Cái tỉnh Quảng Ninh và nhiều huyện thuộc các tỉnh dọc biên giới Việt Trung cũng có một số đền thờ Cao Sơn Đại Vương. Hiện tôi chưa có con số thống kê thật chính xác, nhưng dường như tỉnh nào, huyện nào đi qua ở phía Bắc, tôi cũng thấy có đền/đình thờ vị đại thánh này. Sự tích ghi lại từ nhiều đình/đền mà tôi biết, hầu hết đều viết ông là vị tướng tài của Hùng Vương, không rõ đời thứ bao nhiêu, từng giúp Vua Hùng đánh giặc và xây dựng nhà nước ta từ thời thượng cổ. Vì là truyền thuyết dân gian, nên cũng không ai thấy cần tìm hiểu thêm và các tư liệu cũng chỉ có vẻn vẹn một vài câu đại khái như vậy thôi.
Riêng ở làng xã tôi, trước đây gọi là làng Điền Trì, xã Hộ Xá (bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long - Hà Nội, ghi là xã Điền Trì), tổng Đột Lĩnh (có tài liệu ghi là tổng Cao Đôi) huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, đạo (hoặc trấn) Hải Dương, nay là xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, thì có đến 3 nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và được thờ với sự tích là vị thầy thuốc huyền thoại. Đó là nghè Rồng, đền Rồng và đình Rồng (Rồng là tên khác của làng Điền Trì, vì cụ thượng tổ họ Trần của làng, từ Tức Mặc phủ Thiên Trường - nay là Nam Định chuyển về từ thời Hồ Quý Ly). Ba nơi thờ tự này ở sát cạnh nhau, thuộc gianh giới hai làng kề liền nhau là làng Điền Trì, nay là làng Trực Trì và làng Lương Giản, nay là làng Lương Gián, cùng xã Hộ Xá, nay là xã Quốc Tuấn, cả ba cùng thờ 1 nhân thần, là vị thầy thuốc huyền thoại - cũng là một điều lạ. Ở đây, lai lịch Cao Sơn Đại Vương là một vị đại lương y đã chữa cho dân khỏi bệnh đậu mùa. Thời điểm xảy ra bệnh này thường là vào mùa xuân, làm nhiều người, nhất là trẻ con chết hàng loạt, nên gọi là dịch đậu mùa, kẻ gây ra dịch này gọi là “quan ôn”, và người chết bất cứ ở tuổi nào, đều gọi là đã bị “quan ôn bắt lính”. Và điều đặc biệt quan trọng, nơi đây chính là “nhà”, cũng có thể gọi là “quê” của Cao Sơn Đại Vương. Đó là một điều rất hiếm thấy. Dĩ nhiên, đây chỉ là truyền thuyết dân gian mà thôi, nhưng dẫu sao cũng cho ta một khái niệm là, vị đại thánh này vốn có “nhà” để sinh sống và làm thuốc ở đây, tức là ở xã Điền Trì, nay là xã Quốc Tuấn quê hương tôi.
Căn cứ vào đâu mà nói điều lạ lùng ấy. Xin thưa: Lê Quý Đôn. Trong các trước tác rất thông tuệ của ông, có một cuốn theo tôi là hay nhất, đó là Kiến văn tiểu lục. Trong bộ Lê Quý Đôn toàn tập, đã được xuất bản, thì tập II là Kiến văn tiểu lục, toàn vẹn tác phẩm tuyệt vời nhất của ông, do NXB Khoa học Xã hội in ấn và phát hành năm 1977. Trong tập này, tại trang 445, có ghi: “Cao Sơn Đại Vương tinh thông làm thuốc, chữa khỏi bệnh đậu mùa. Một đêm hiện lên nói: “Tôi là Cao Sơn, nhà ở xứ Đầu Hồ, xã Lương Giản, huyện Chí Linh”.
Ba nơi thờ Cao Sơn này ở đầu hàng loạt hồ nước rộng liền nhau, đổ ra và nhận nước về của sông Kinh Thày, hồ cuối cách sông chỉ chừng 700-800 mét theo đường chim bay. Có lẽ vì thế mà gọi là xứ Đầu Hồ chăng? Không nên bàn điều đó là đúng hay không, cũng không nên bàn là điều Lê Quý Đôn ghi như thế là đúng hay sai, vì đây là truyền thuyết dân gian, là huyền thoại mà, nhưng trong trước tác bất hủ của mình, nhà bác học lừng danh đã ghi rõ ràng như vậy. Vậy thì ta cứ biết vậy.
Có lẽ cũng vì thế chăng, mà làng xã tôi có nghè, lại có đền, rồi lại có đình, cả 3 nơi này đều thờ Cao Sơn Đại Vương, một đại danh y huyền thoại. Nghè và đền xây trước, đình xây sau. Nghè và đền xây năm nào không rõ, còn đình thì xây sau năm Canh Tuất (1670), hiện còn tấm bia cổ, vuông cao to nguyên khối, văn bia do Tiến sĩ Tả Thị lang bộ Hộ, Phương Trì hầu, Triều liệt đại phu, Trụ quốc, là Trần Thọ, soạn. Ông là người làng Điền Trì, từng làm Tham tụng, Hình bộ Thượng thư, thời Lê, do xử sai một vụ án mà bị hạ cấp. Đến năm 1740 thì cả nghè, đền và đình, đều bị Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Ninh Xá, san phẳng (Ninh Xá cùng huyện, cách Điền Trì một cánh đồng). Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, năm 1741, khoảng từ năm 1743 đến năm 1748, cả 3 nơi thờ tự vị Đại danh y huyền thoại đều được Tiến sĩ Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư, Triều liệt đại phu, Thượng Trụ quốc, Thái bảo, Diệu Quận công Trần Cảnh (con Trần Thọ) cho xây lại, bằng tiền của Nhà nước, do vua Lê Hiển Tông cấp cho. Nghè và đền 1 gian 2 chái, xây trên gò đất cao, cây cối um tùm. Đình ở bên cạnh, rất to và rộng, gồm 7 gian, hàng năm mở hội từ 12-14 tháng Giêng âm lịch, cho cả khu vực phía Bắc xứ Đông, nổi tiếng chỉ sau Côn Sơn, Kiếp Bạc.
Trong kháng chiến chống Pháp, nghè và đền ta phá năm 1947-1948, đình ta phá năm 1952. Sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng, chính tôi là người đã thu thập được một vài tư liệu cũ, làm cơ sở để “Ban xin xây lại đình Rồng” do nhân dân tự lập ra, xin phép cấp có thẩm quyền cho khôi phục lại đình Rồng. Đình Rồng đã được xây lại, ở phần đất bên phải ngôi đình cũ và tấm bia cổ đã được di chuyển ra chỗ mới, đặt ở trước cửa đình mới (vì cả dãy hồ lớn đã lấp gần hết và đất đầu hồ của cả ba nơi thờ tự này đã lấy làm việc khác). Quy mô đình hiện có rất nhỏ, kinh phí do nhân dân tự bỏ tiền ra. Hiện đình Rồng mới và tấm bia cổ kia đã được công nhận là Di tích Văn hóa và lịch sử cấp tỉnh. Trong đình xưa có 1 danh nhân được phối thờ là Tham tụng Lễ bộ Thượng thư Trần Cảnh, nhà nông học đầu tiên của Việt Nam, Thành hoàng làng Điền Trì, người trực tiếp chủ trì xây lại đình Rồng, nghè Rồng, đền Rồng, chắc sẽ khôi phục lại bài vị phối thờ sau. Hiện trong đình Rồng chỉ có một tượng thờ duy nhất, là vị thầy thuốc huyền thoại, được nhân dân phong đại thánh là Cao Sơn Đại Vương, theo ghi chép của Lê Quý Đôn. Tôi không rõ có nơi nào khác ở miền Bắc thờ Cao Sơn Đại Vương với sự tích là vị thầy thuốc huyền thoại vĩ đại, đã chữa khỏi bệnh đậu mùa cho dân gian thời xưa không? Còn nhân dân ở đây chỉ biết đại thánh Cao Sơn là thầy thuốc, không ai biết ông có nơi được thờ là tướng của Vua Hùng.