Có lẽ không con sông nào ở nước Việt có thể sánh với sông Bạch Đằng về những chiến công lừng lẫy trong lịch sử dân tộc. Chúng tôi về thăm dòng sông lịch sử vào một chiều thu lộng gió, con sông vẫn rộng lớn, đỏ ngầu phù sa và đứng trên một bãi bồi nhô ra, có thể hình dung ra một vùng chiến địa hiểm yếu năm nào.
Sông Bạch Đằng vốn là một chi lưu của sông Thái Bình nằm giữa địa phận hai tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Sông ngắn nhưng là một trong những con sông sâu và hiểm trở nhất của miền Bắc. Chúng tôi đứng ở bờ Bắc dòng sông, phía trung tâm thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh mà ngắm nhìn cảnh sông nước. Những con thuyền nhỏ đánh cá đang chạy rầm rì trên sông. Những bãi sú vẹt mọc um tùm như một khu rừng nhỏ, tiếng sóng vỗ vào bờ ì oạp đều đều. Sông lớn và gây cảm giác hồi hộp đứng trước bến bờ của lịch sử.
Sông Bạch Đằng.
Chúng tôi đi dọc bờ sông. Ngay sát bờ sông Chanh, một chi lưu của sông Bạch Đằng là những hàng bán sò huyết, trai, hà, nghêu và các loại hải sản trong vùng. Nếu không phải người nơi đây, ít ai biết được rằng, con hà cồn là một đặc sản của vùng sông Bạch Đằng vì mình to, ruột dày và khi nấu canh chua sẽ có một món ăn tuyệt hảo. Thị xã Quảng Yên nổi tiếng với những sản phẩm thủy hải sản do ngư dân đánh bắt được. Vào chợ Rừng giữa trung tâm thị xã, cơ man nào là mực, tôm, sò, cá, ốc... Một cái chợ vùng sông nước bao giờ cũng toát lên vẻ đặc trưng ngay từ cửa chợ: mùi của tôm, cua, cá, mực... và dáng lam lũ, tất bật của những người đánh cá, tiểu thương vội vã trên những xe hàng chở cá tôm đến chợ cho kịp tươi ngon.
Thị xã Quảng Yên nằm bên bờ sông Bạch Đằng vốn là một đô thị cổ có lịch sử hơn trăm năm. Trước đây thị xã vốn là trấn lỵ của trấn Yên Quảng thời Nguyễn, sau thành thủ phủ của tỉnh Quảng Yên, từng được chọn là nơi nghỉ dưỡng của người Pháp, sau lại hạ cấp thành thị trấn và mới được tái lập thành thị xã.
Cái thị xã trải qua nhiều thăng trầm này mang trong mình nhiều nét thú vị. Tôi đặc biệt chú ý đến Hồ Xuân Hương vì nữ sĩ họ Hồ này đã có một thời gian sống ở đây khi bà lấy lẽ chồng là tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, dưới thời vua Gia Long. Người ta vẫn lưu truyền rằng khi sống ở Quảng Yên, bà đã cùng chồng lên công đường xét án và bà cũng thăm thú vịnh Hạ Long (khi đó còn mang tên là vũng Hoa Phong). Nữ sĩ đã làm một chùm 5 bài thơ chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp của vịnh Hạ Long và là một trong những chùm thơ sớm nhất viết về thắng cảnh nổi tiếng này. Thị xã Quảng Yên vừa có nét cổ kính của một đô thị cổ vừa có nét hiện đại tươi mới của một đô thị mới đang chuyển mình. Những biệt thự người Pháp xây dựng vẫn còn giữ lại được khá nhiều, dinh Công sứ Pháp có kiến trúc tương tự tòa Bắc Bộ phủ ở Hà Nội nhưng ở quy mô nhỏ hơn, giờ là trụ sở Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên.
Dấu vết về một vùng chiến địa năm xưa vẫn còn lưu giữ ở vùng đất này khá nhiều. Trong thị xã Quảng Yên có hai cây lim cổ thụ mọc bên cạnh giếng Rừng. Theo các nhà khoa học, hai cây lim đã gần ngàn năm tuổi, trùng khớp với thời gian chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Trần Quốc Tuấn rất có thể khi đó đã tận dụng cánh rừng lim ngay bên sông Bạch Đằng mà đóng cọc, dàn binh. Vùng đất này xưa kia vốn là một khu rừng lớn vì các địa danh vẫn còn lưu chữ “rừng” từ nguồn gốc của mình: giếng Rừng, bến Rừng, chợ Rừng... Hai cây lim trải qua bao khắc nghiệt của thời gian và lịch sử, thân cành có chỗ đã khô mốc, rêu phong, tưởng chừng có lúc không trụ vững nhưng giờ đây hai chứng nhân sống của lịch sử đã hồi sinh tươi tốt, tỏa bóng xuống hai cái giếng cổ, nước lúc nào cũng mát lạnh và trong vắt.
Cũng không khó để tìm thấy dấu vết của bãi cọc ngầm của trận chiến năm xưa ở nơi chiến địa này. Ngay rìa bờ sông Bạch Đằng và các chi lưu, người ta đã tìm thấy những bãi cọc vẫn còn nguyên vẹn; những cái cọc to, chắc chắn nhất đã được đưa về Bảo tàng Quốc gia và tỉnh; Bảo tàng thị xã Quảng Yên cũng trưng bày một số cọc lim tiêu biểu và một số cọc nhỏ hơn vẫn nằm giữa bãi sông và vào những ngày triều rút có thể nhìn thấy những đầu cọc nhờ nhờ dưới nước.
Hai cây lim giếng Rừng - chứng tích của chiến thắng Bạch Đằng giữa rừng Quảng Yên, Quảng Ninh.
Trong thị xã Quảng Yên, người ta thường hay kể câu chuyện về một bà hàng nước ngồi bên gốc cây Quếch ở bến sông. Chính người đàn bà này đã mách bảo Trần Quốc Tuấn về quy luật lên xuống của thủy triều để ông bố trí thời gian dẫn dụ giặc vào bãi cọc. Giặc tan, khi Trần Quốc Tuấn quay lại để cảm tạ thì không thấy bà bán hàng nước đâu, gốc cây nơi bà ngồi, mối đã đùn lên một đống lớn. Trần Quốc Tuấn đã cho lập ngôi miếu để tưởng nhớ người có công giúp nước, dân quanh vùng thì gọi là miếu Vua Bà. Trải qua gần nghìn năm lịch sử, gốc Quếch bên bến sông Bạch Đằng vẫn còn, thân cây quá già đã mục ruỗng nhiều nhưng vẫn còn những đoạn chồi non đang xanh tốt. Miếu Vua Bà được xây cạnh ngay đền thờ Trần Quốc Tuấn và quay ra bến sông Bạch Đằng. Quan sát địa thế của khu đó thì thấy đúng có một luồng sông ăn sâu vào bờ và gần sát gốc Quếch cổ thụ năm xưa.
Vượt qua cầu sông Chanh là vào vùng Hà Nam của thị xã Quảng Yên. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử và dân gian truyền lại thì vùng đảo này chính là nơi diễn ra những trận giao tranh ác liệt nhất của trận Bạch Đằng năm 1288. Tôi ngồi một quán nước hỏi thăm thì được một cụ già phơ phơ tóc trắng đọc cho câu ca thế này: Bạch Đằng giang là sông cửa ải/Tổng Hà Nam là bãi chiến trường. Và về thực hình thì có thể dễ dàng nhận ra tổng Hà Nam xưa kia, giờ là các phường, xã của thị xã Quảng Yên ngày nay có một mặt bằng khá thấp và trong khu đảo có rất nhiều các nhánh sông, kênh rạch nhỏ. Khi một trận chiến diễn ra trên sông thì vùng này rất thuận tiện cho việc ém quân, giấu thuyền hoặc chuyên chở lương thực, vũ khí. Khi giặc Nguyên Mông bị đánh rát quá ở giữa sông, chúng chạy lên các bờ bãi nhiều lau sậy, cây cối mọc um tùm tìm cách thoát thân và nơi đó quân ta đã phục kích đợi sẵn.
Những phường xã khu vực đảo Hà Nam ngoài truyền thống đánh giặc giữ nước, cũng là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo; là địa phương có diện tích khá hẹp nhưng vùng đảo có nhiều di tích lịch sử văn hóa nhiều nhất tỉnh Quảng Ninh. Đi trên vùng đảo, chốc chốc lại gặp một mái đình hay một ngôi miếu cổ; và một số làng trên đảo đã tôn Trần Quốc Tuấn là thành hoàng làng của mình, càng minh chứng cho vùng chiến địa này. Đặc biệt ở đình làng Trung Bản có một pho tượng gỗ tạc Trần Quốc Tuấn đầy vẻ phiêu bồng mà oai dũng và đã được nhiều nơi mang về làm mẫu tượng vị danh tướng lẫy lừng này. Đình Phong Cốc, nằm trên phường Phong Cốc cũng là một trong những ngôi đình cổ nhất và đẹp nhất của miền Bắc còn sót lại. Mái đình cổ thấp tè, những hàng cột bằng gỗ lim một người ôm không xuể đã bóng nước thời gian, sân đình lát bằng đá xanh với một cái chợ quê họp ngay gần đó tạo một không khí vừa cổ kính, vừa dân dã của một vùng đất cổ.
Dân vùng đảo Hà Nam chủ yếu làm nghề đánh bắt thủy sản và nông nghiệp. Tương truyền sau chiến thắng Bạch Đằng, nhiều chiến binh đã xin với chủ tướng ở lại vùng này để lập nghiệp vì thấy đất đai màu mỡ, cá tôm đầy sẵn. Vùng đất cũng có quan hệ rất rất gần gũi với kinh thành Thăng Long vì nhiều vị tiên công được thờ ở miếu Tiên công trên đảo nguyên là người ở phường Kim Hoa, kinh thành Thăng Long, mấy trăm năm trước đã về đây lập nghiệp. Hàng năm vào dịp tháng giêng, dân đảo có lễ hội tiên công rước các cụ thọ lên miếu để tỏ lòng hiếu lễ với tổ tiên, ông bà.
Thị xã Quảng Yên bây giờ nổi tiếng là một vùng trồng rau sạch. Đi qua những cánh đồng của thị xã, đâu đâu cũng nhìn thấy những ruộng su hào, bắp cải, cải thảo, cải chíp, cà chua, mướp ta... xanh tốt. Quảng Yên đang phấn đấu trở thành thủ phủ rau sạch của Quảng Ninh. Rau sạch của Quảng Yên không những cung cấp cho thị trường Quảng Ninh mà còn phục vụ các tỉnh lân cận.
Anh bạn của chúng tôi chọn một điểm ngay sát bờ sông để đón khách. Từ bờ sông nhìn ra chốc chốc lại thấy một con thuyền ghé vào bờ mang tôm cá lên chợ. Trong không khí bồi hồi của một chiều thu, vừa đón gió sông Bạch Đằng mát rượi, vừa ngồi trong một cái quán nhỏ thưởng thức bát canh hà nấu chua, con điệp nướng dân dã, gắp đĩa rau sạch mà thêm yêu, thêm quý mảnh đất ở nơi chiến địa lịch sử này.