Về làng Cương Gián

09-04-2016 11:00 | Xã hội

SKĐS - Tôi trở lại làng Cương Gián vào một ngày đầu xuân. Không gian dường như chùng chình chậm rãi choàng xuống đời sống kinh tế thị trường đang đổi thay chóng mặt như muốn cân bằng lại sinh thái.

Tôi trở lại làng Cương Gián vào một ngày đầu xuân. Không gian dường như chùng chình chậm rãi choàng xuống đời sống kinh tế thị trường đang đổi thay chóng mặt như muốn cân bằng lại sinh thái. Con đường 22 chạy dọc theo bờ biển mang đến cho các làng quê một luồng sinh khí mới...

Làng Cương Gián (Nghi Xuân - Hà Tĩnh) được xem là làng giàu nhất xứ Nghệ nhờ đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Địa danh Cương Gián được chép trong Sử ký toàn thư: “Cương là cương quyết, Gián là can ngăn”. Cũng có người cho là Gián có nghĩa là giãn rộng, đi xa. Ở đây còn lưu truyền những câu ca của dòng họ Nguyễn từ Thanh Hóa vào sinh cơ lập nghiệp  từ lâu: “Họ ta vốn gốc từ Diêm Phá - Thuộc tỉnh Thanh vất vả vào đây - Mến yêu cảnh vật nơi này - Cần cù lương thiện vui vầy làm ăn”. Do quá trình giao lưu buôn bán dọc bờ biển, triền sông khá nhiều người vốn ở làng này đã thiên cư nhiều nơi hoặc ở xen ghép quần tụ thành từng chòm, xóm riêng. Trong sách Hoan Châu Phong Thổ kí đã viết về làng Cương Gián sầm uất, đông đúc với nghề làm nước mắm vang bóng một thời: “Thuyền bè chen chúc dọc bờ sông, sập sả tiếng vang bên bến nước”.

Một góc làng Cương Gián.

Đang mơ màng với những lũy tre xanh giấu sau đó gương mặt của đời sống nông thôn ngàn đời, tôi bỗng bất ngờ gặp một không gian sống động nhiều hình khối của làng Cương Gián. Hơi thở của đô thị đã phả vào đây. Chân dung làng được xây dựng bởi những khối nhà tầng quét sơn đủ màu sắc. Đất làng như dồn chật lại. Hai bên đường nhựa san sát những ki-ốt bán hàng, rồi chợ, rồi công sở. Con người Cương Gián hoạt bát hẳn lên. Nụ cười, gương mặt, kiểu áo màu tóc rạng rỡ hơn. Làng đang giàu lên.

Ông Hoàng Văn Tiến - Phó Chủ tịch UBND xã Cương Gián cho biết: Xã có khoảng 14 nghìn dân nhưng mấy chục năm nay có tới 2.500 người đã đi xuất khẩu lao động. Mỗi nhà bình quân có từ 2-3 người, đặc biệt có gia đình 9, 10 người người xuất khẩu. Chỉ tính riêng thị trường Malaysia và Đài Loan, năm ngoái tiền gửi tín dụng của lao động xuất khẩu gần 35 tỷ đồng. Cương Gián có 15 thôn, thôn nhiều nhất là có 303 người đi xuất khẩu lao động, thôn ít nhất là 73 người, bình quân mỗi lao động gửi về nhà 30 triệu/tháng. Ông Tiến dẫn tôi vào nhà chị Lê Thị Thanh ở gần chợ Cương Gián mà theo bà con ở đây giới thiệu nhà đó có đến 5 đứa con gái đi du học. Du học? Tôi ngạc nhiên vì cứ tính 1 suất đã mất một khoản tiền lớn cho mấy năm ăn học thành nghề. Nhưng không phải thế, chị Thanh kể: Nhà chị có đến 6 cô con gái, đến đứa thứ 7 mới là con trai. Sáu con gái ở đất nghèo này thì làm nghề gì? Đó là một bài toán khó. Anh chị đã bán đàn bò ở nông trại dưới chân núi Hồng Lĩnh cho cô chị đi xuất khẩu sang Hàn Quốc. Cứ thế chị kéo em sang, có tiền cho em đi nước khác. Đến nay cả 5 chị em đã có công việc ổn định thu nhập cao và ba chị đã lấy chồng người Việt cũng đi xuất khẩu. Thì ra du học là một cách nói, thật ra sang đó để đi làm thuê, học tiếng và học nghề.

Tôi hỏi ông Tiến:

- Vậy thì bí quyết nào để làng Cương Gián có cái chìa khóa vàng mở cánh cửa bao lâu nay vẫn đóng kín, rồi vốn, con người?

Ông Tiến rót mời tôi bát nước chè xanh sóng sánh và hồ hởi nói:

- Thật vậy, việc đưa lao động ra nước ngoài làm ăn ban đầu cũng khó khăn, thiếu một yếu tố quyết định là đồng vốn. Dân Cương Gián nghèo lấy đâu ra đồng vốn để làm thủ tục. Bài toán này được giải bằng một phép rất đơn giản: Cả làng gom tiền lại cho người lao động, người lao động lại gửi về cho người khác đi tiếp, cứ thế mà rộng dần. Và để làm được điều này, Cương Gián có một tổ chức trung gian là quỹ tín dụng nhân dân.

Tôi đến quỹ tín dụng của xã, gặp ông Trần Kỉnh, nguyên  phụ trách quỹ tín dụng xã ngay từ ngày đầu thành lập. Ông Kỉnh     có dáng người thấp đậm, điềm đạm, giở cuốn sổ bằng những ngón tay to bè sứt sẹo vết lưỡi câu. Đây là “ngư phủ” chính cống, giờ đây “ngư phủ” đang đọc lên những con số bằng trí nhớ tuyệt vời của mình. Những con số thân thương không còn   hơi đồng, hơi bạc mà thấm ướt bao mồ hôi công sức. Những con số tiền tỷ cứ hiện lên hao hao như gương mặt của những người thân, nó có linh hồn cựa quậy không chịu nằm yên trong những ô kẻ dòng của cuốn sổ học trò. Tôi hỏi ông:

- Bí quyết nào để ông tháo gỡ những khó khăn và phát triển quỹ?

- Tôi nghĩ một phương án được chấp nhận trước mắt quỹ tín dụng tập trung huy động vốn 100% chỉ cho vay 50%. Khuyến khích những người gửi nhiều tiền vào quỹ. Nếu rút trước thời hạn cũng được hưởng lãi suất bằng 20% lãi suất đúng kỳ hạn.

Ông Tiến nói với tôi:

- Biển nó sâu nó có sóng ngầm thì trên bờ cũng thế. Nhưng ông Kỉnh có cái tâm sáng không bao giờ tơ hào bớt xén nên được nhân dân tin. Người xưa nói: Chèo thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân.

Tác giả trước nhà quỹ tín dụng xã Cương Gián.

Câu chuyện bắt đầu có hơi hướng văn nghệ, tôi vội quay lại vấn đề mà mình quan tâm:

- Nghe nói dân xuất khẩu lao động nếu không có quỹ tín dụng làm mạnh thường quân thì khó mà làm ăn được phải không bác Kỉnh? Vả lại cho vay như thế cũng mạo hiểm, lấy gì thế chấp?

Hình như câu hỏi của tôi chạm đến điều tâm đắc nhất nên ông sôi nổi hẳn lên:

- Thế chấp bằng lòng tin, con em làng xóm cả mà, chuyện cho vay đi xuất khẩu lao động nước ngoài là việc làm mới mẻ. Cách đây hơn chục năm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về khảo sát thấy vốn thu hồi được đã ra Quyết định 440 cho phép vay hỗ trợ người đi lao động xuất khẩu.

- Như thế ông đi trước mở cho ngành ngân hàng một dịch vụ mới, một “bà đỡ” mát tay.

- Mình là người ở cơ sở nên thấu hiểu nhất hoàn cảnh cụ thể, từ đó đúc kết kinh nghiệm và thử làm mặc dù có khi trật ngoài “đường ray” cơ chế nhưng thấy có lợi là làm và đến lúc Nhà nước nhìn thấy lại có lợi cho toàn quốc.

Tôi tìm gặp một tỷ phú trẻ gần 30 tuổi. Tên anh là Nguyễn Đại Dương. Bố anh là một “tài công” có tiếng ở đất này. Ông đặt tên con là Đại Dương như một khát vọng chinh phục biển khơi. Nhưng rồi biển đột ngột mất cá. Ông xót xa nhìn con thuyền chỏng chơ trên cát nứt nẻ vì đi biển chỉ có lỗ dầu. Ông quyết định vay tiền cho Đại Dương đi xuất khẩu lao động. Chàng trai có vóc người chắc đậm, vòng ngực vòng tay cuồn cuộn thấm cái “gen” của ông nên yêu biển từ nhỏ, được ông truyền nghề, truyền cả đức tính cần cù chịu khó. Dương sang Hàn Quốc, được phân công đi biển. Đi biển vất vả nhưng thu nhập cao hơn trên bờ. Trong một dịp lên bờ, tình cờ Dương gặp cô gái cùng làng sang đây làm ở xưởng may mặc có cái tên hiền dịu là Hương Mai. Đám cưới của họ được hội đồng hương tổ chức tuy đơn giản nhưng ấm áp. Có một làng Cương Gián thu nhỏ ríu rít tiếng nói cười của cộng đồng trên đất Hàn Quốc. Đến nay đã có mấy chục cặp cưới nhau trên đất Hàn trước khi về ra mắt gia đình ở Cương Gián. Giờ đây Đại Dương có một cửa hàng kim hoàn vàng bạc sát cạnh chợ Cương Gián, còn Hương Mai là chủ cửa hàng may mặc cao cấp có nhiều kiểu mốt mới lạ được nhiều thanh niên yêu thích.

Tôi hỏi ông Hoàng Văn Tiến:

- Khi đời sống được lên cao, thanh niên dễ rơi vào con đường hư hỏng với các tệ nạn xã hội. Thế còn làng Cương Gián?

Ông Tiến nói:

- Ở làng này ít xảy ra điều đó, vì đồng tiền họ kiếm được từ sức lao động. Người lao động xuất khẩu của Cương Gián lao lực gần chục năm trời nơi đất khách quê người mới có được cái vốn ban đầu ấy. Thanh niên về làng tập trung thời gian trí lực tìm cách quay vòng đồng tiền, ít sa vào những vòng cám dỗ. Họ đua nhau làm giàu chân chính. Tuy nhiên, tìm ra nghề mới không phải dễ. Vì ở đây dân chủ yếu làm nghề đánh cá cha truyền con nối. Mà biển xanh thì chảy máu trắng từ lâu rồi. Còn trên bờ đất chật người đông, dịch vụ mọc lên san sát, có khi người bán nhiều hơn người mua nên chúng tôi tìm cách tạo ra những mô hình kinh tế mới. Ví dụ như thực hiện phủ xanh rừng 315ha ở núi Hồng Lĩnh. Rồi có hàng trăm hộ đầu tư nguồn vốn xây dựng trang trại chăn nuôi đàn bò, đàn dê hàng nghìn con. Lạch Kèn bây giờ được bà con ở thôn Đại Đồng, Song Long vay vốn từ quỹ tín dụng xã cùng với tiền con em nước ngoài gửi về đã cải tạo gần 40ha đất sình lầy thành cánh đồng nuôi tôm có năng suất cao. Đó là những con số về kinh tế dễ nhìn thấy. Nhưng điều làm tôi tâm đắc nhất ở thế hệ trẻ là khi lao động xuất khẩu về, họ học được tác phong công nhiệp, nhạy bén tiếp thu những cái mới của thời đại thông tin khoa học công nghệ như những ứng xử có văn hóa với cộng đồng môi trường trong các quan hệ xã hội. Những điều đó làm cho họ sinh động, hoạt bát hẳn lên, còn sâu thẳm họ vẫn giữ được bản chất con nhà nông.

Làng Cương Gián sau một cuộc trở mình đã gần như lột xác bằng chính sự cương quyết không cam chịu đói nghèo, nới rộng, giãn ra tầm nhìn của mình như cái tên Cương Gián xuất xứ từ ngày xưa.

Hà Tĩnh, 9/3/2016


Nguyễn Ngọc Phú
Ý kiến của bạn