Nằm nép mình bên sông Đáy hiền hòa, tựa lưng vào núi Rùa, Đình So thuộc huyện Quốc Oai (cũ), Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 25 km về phía Tây, gần trục đường Quốc lộ 21A (đoạn từ ngã ba Hòa Lạc rẽ về hướng Chùa Thầy). Nơi đây được xem là một trong những công trình tiêu biểu nhất còn lại của kiến trúc đình làng Việt.

Trải qua hơn 3 thế kỷ, đình So vẫn giữ gần như nguyên vẹn hình hài xưa, là minh chứng sống động cho bàn tay tài hoa và tư duy thẩm mỹ tinh tế của người Việt cổ.
Theo sách Sơn Tây tỉnh địa chí (Phạm Xuân Độ, 1941), đình So được tu tạo vào năm 1673 dưới triều Lê Gia Tông. Văn bia "Tu sáng Hoa đình bi ký" khắc năm Dương Đức thứ 3 (1674) ghi rõ: đình được tu bổ năm Quý Mão (1663), khởi công ngày 27 tháng 7 và hoàn thành chỉ hơn hai tháng sau.
Từ đó đến nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng cấu trúc cổ. Công trình được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", trên diện tích hơn 1.100m², gồm 55 gian dọc ngang và 64 cột gỗ lim đặt trên chân tảng đá xanh vững chãi.
Kiến trúc đình làng Việt
Toàn bộ khu đình được bố cục hài hòa giữa thiên nhiên, "gối núi – soi sông" theo thế phong thủy "sơn thuỷ hữu tình". Cổng tam quan hai tầng, ba gian, bốn mái nổi bật với hình lưỡng long triều nguyệt, tứ linh và hoa văn chạm khắc tinh xảo. Hai bên bậc dẫn vào là 18 bậc đá xanh, lan can đá uốn cong mềm mại.
Qua tam quan là tam môn rộng khoảng 54m², bốn góc đầu đao cong vút. Gian chính đình gồm 7 gian, 2 chái, mái ngói cổ phủ rêu, tạo nên vẻ trầm mặc, uy nghi.

Bên trong đình, 32 cột lim lớn nhỏ xếp thành 6 hàng ngang, nâng đỡ hệ vì kèo được chạm khắc tỉ mỉ với đề tài rồng, phượng, tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây nước…

Các nghệ nhân xưa sử dụng kỹ thuật chạm nổi và chạm lộng tinh xảo, biến từng cấu kiện gỗ thành tác phẩm nghệ thuật.

Ba mặt đình là cửa bức bàn bằng gỗ lim có tuổi đời hàng trăm năm, nay vẫn khít mộng, sáng bóng. Sau chính điện là hậu cung, chỉ mở cửa trong dịp lễ hội – nơi lưu giữ nét linh thiêng nhất của ngôi đình.
Đình So thờ Tam vị Nguyên soái Đại Vương – ba vị tướng trung thành phò tá vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân vào thế kỷ X.
Theo truyền thuyết địa phương, xưa có một đôi vợ chồng hiếm muộn cầu tự ở đất làng So, sinh được ba người con trai tài giỏi, sau này chính là ba vị tướng được thờ phụng tại đình.

Hiện trong đình còn lưu giữ 40 đạo sắc phong từ thời Lê – Nguyễn (1601–1924), cùng nhiều hoành phi, câu đối, nghi trượng cổ, khẳng định giá trị lịch sử – tín ngưỡng bền vững của di tích.

Những cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim có tuổi đời hơn 350 trăm năm chạy khắp 3 mặt đình So.
Hội làng diễn ra trong ba ngày, từ mồng 8/2 âm lịch, thu hút đông đảo con dân xa quê về dự.
Lễ khao quân tổ chức ngày 10/7 âm lịch, tái hiện nghi thức tri ân các tướng lĩnh đã có công bảo vệ quê hương.
Ngày Thánh hóa diễn ra vào 10/12 âm lịch, là dịp tưởng nhớ công đức Tam vị Đại Vương.

Các lễ hội đều mang đậm bản sắc xứ Đoài, với nghi thức rước, tế, diễn xướng dân gian và các trò chơi truyền thống, thể hiện tinh thần cộng đồng và niềm tự hào quê hương.

Năm 1980, Đình So được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao & Du lịch) xếp hạng Di tích Quốc gia. Gần đây, di tích tiếp tục được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt, thuộc nhóm di sản cần bảo vệ nghiêm ngặt.
Người dân làng So luôn coi đình là "báu vật" của quê hương. Nhiều câu chuyện vẫn được kể về tinh thần gìn giữ di tích: có lần đoàn làm phim xin tháo hoành phi, câu đối để quay cảnh cổ trang, nhưng các bậc cao niên trong làng kiên quyết từ chối – vì "đình là nơi thánh ngự, không thể xâm phạm".

Ngày nay, Đình So không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, mà còn là điểm đến yêu thích của du khách, nhiếp ảnh gia và giới nghiên cứu kiến trúc bởi vẻ đẹp cổ kính, tĩnh lặng và đậm chất xứ Đoài.