Về Cù lao Ông Hổ, thăm quê Bác Tôn

01-03-2014 07:00 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Tôi có ấn tượng ngay với thành phố Long Xuyên ở không khí âm nhạc sông nước miền Tây êm đềm trên những con phố. Những câu hát Lý đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long ngọt và dễ thương làm sao. Một cô gái chèo đò lướt qua tôi. Một vạt áo bà ba nhè nhẹ bay trong làn gió sông Hậu.

Tôi có ấn tượng ngay với thành phố Long Xuyên ở không khí âm nhạc sông nước miền Tây êm đềm trên những con phố. Những câu hát Lý đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long ngọt và dễ thương làm sao. Một cô gái chèo đò lướt qua tôi. Một vạt áo bà ba nhè nhẹ bay trong làn gió sông Hậu. Cô ngoái lại một cách tình cờ như muốn mời qua bến Ô Môi. Phía trước là Cù lao Ông Hổ. Tôi bồi hồi nhìn những con thuyền máy lướt trên sông. Họ cũng chở khách đi chợ sang cù lao. Những ghe hàng chạy như mắc cửi.  

 

Tượng đài Bác Tôn ở Long Xuyên.

Tượng đài Bác Tôn ở Long Xuyên.

 

Con phà chúng tôi đi phải vòng qua một cù lao nhỏ, rồi còn chạy tiếp mươi phút nữa mới đến bến Cù lao Ông Hổ. Sóng nước sông Hậu buổi sáng thật hiền hòa, nhưng lại mênh mông với nhiều tàu bè đi lại. Anh Châu đưa tôi đi và mô tả Cù lao Ông Hổ thật lạ. Đây là một hòn đảo được hai nhánh sông Hậu bao bọc, chiều dài 8km, chiều ngang nơi rộng nhất 5km, nằm chếch về hướng Tây Bắc thành phố Long Xuyên, cách khoảng 4km. Từ mọi ngả đều phải đi thuyền hay phà mới tới đó được. Hàng ngàn năm trước, nó hình thành bởi phù sa sông Hậu bồi đắp mà thành. Xưa là một cánh rừng tự nhiên, khi có người lên khai phá, Cù lao Ông Hổ có nhiều thú dữ, nhiều nhất là hổ.

Nhưng thực ra không phải vì thế mà người ta gọi là Cù lao Ông Hổ. Cái tên này lại hình thành từ một truyền thuyết về ơn nghĩa và tình cảm sâu nặng giữa con người đối với mảnh đất nơi họ đến sinh sống. Một ông già, người ở Cù lao Ông Hổ đi cùng nghe thấy vậy gật đầu tán thành rồi kể câu chuyện mà người dân nào ở đây cũng đều biết rất rõ. Trong một trận mưa lũ lụt ngập cù lao, có một con mèo nhỏ đứng co ro, chơ vơ trên một đám bèo lục bình, có nguy cơ chết vì đói rét và sẽ bị nước lũ cuốn đi. Hai vợ chồng nọ nhìn thấy thương quá, lội ra sông mới nhận ra đó là một con hổ mới sinh, nhưng vẫn mang về chăm nuôi. Chú hổ nhỏ được cứu sống, được chăm sóc và lớn lên trong tình thương yêu của một gia đình. Con hổ ngày càng trở nên ngoan ngoãn, hiền lành và xóa bỏ đi những bản tính hung ác của loại thú dữ. Nó ngày càng có tình cảm và mang ơn sâu nặng với hai vợ chồng nọ.

 

Ngôi nhà nơi Bác Tôn cất tiếng khóc chào đời.

Ngôi nhà nơi Bác Tôn cất tiếng khóc chào đời.

 

Ngày lại ngày, cuộc sống càng trở nên gắn bó và vượt qua bao khó khăn trong sự mưu sinh, hổ và người càng yêu thương và đùm bọc lấy nhau. Rồi thời gian trôi đi, theo những năm tháng dài, vợ chồng người nông dân nọ già cả, rồi bệnh tật chết đi. Con hổ bị người làng xua đuổi vì sợ hậu họa khó lường với những loài cầm thú. Nó đi, nhưng đêm đêm vẫn về với ngôi mộ của hai người đã nuôi dưỡng nó. Hổ phủ phục và im lặng trước ngôi mộ. Cho dù mưa gió hay bão tố, con hổ vẫn trở về và quỳ trước ngôi mộ.

Rồi con hổ cũng về già, nhưng lòng thương nhớ và biết ơn người đã cứu sống và nuôi dưỡng nó chẳng thể nào nguôi. Nó vẫn về, rơi những giọt nước mắt yếu đuối khóc thương cho đến khi trút hơi thở cuối cùng và gục chết trong đêm, bên hai ngôi mộ mà nó coi là cha, là mẹ mình...Sáng hôm sau, biết tin, cả làng sững sờ bởi tình nghĩa của loài vật mà bấy lâu nay mọi người lo sợ. Chính vì câu chuyện đó, người dân ở đây đã cảm phục lập miếu thờ cho người chết và cả miếu thờ cho hổ. Từ đó, họ đổi tên là Cù lao Ông Hổ. Cho dù đến nay, cù lao đã được đổi tên là xã Mỹ Hòa Hưng nhưng mọi người của thành phố Long Xuyên vẫn gọi đó là Cù lao Ông Hổ. Đúng lúc này, phà cập bến cù lao, trước mặt chúng tôi là cổng chào lớn với những dòng chữ chào đón du khách. Anh Châu đưa tôi đến thẳng Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Tôi ngạc nhiên vì ngôi nhà sàn của gia đình bác Tôn quá đẹp. Ngôi nhà nơi bác Tôn cất tiếng chào đời (20/8/1888) vẫn còn nguyên hơi ấm của mọi người trong gia đình: cha mẹ, các em và những người thân. Vẫn còn đó cây cau bên vại nước mưa đấy và vẫn còn cánh võng tuổi thơ ngày nào tiếng ru của người mẹ văng vẳng bên tai. Ai cũng có ấn tượng với hai câu Liễn treo ở hai bên bàn thờ bác Tôn với những dòng chữ Hán Nôm viết theo nghệ thuật thư pháp với nội dung thật ung dung tự tại, điển hình cho nền văn hóa miệt sông nước miền Tây, tạm dịch: “Bèo tự trôi về chốn xưa không oán hận, không nhờ con gió đưa/ Ánh trăng sáng cùng với tuyết đẹp diễm lệ thoảng hương thơm”.

Sau này, cho dù đi tới mọi bến bờ, trải qua nhiều hoạn nạn bị tù đầy ở Côn Đảo, cậu hai Thắng vẫn nhớ về quê mẹ. Cậu nhớ về Cù lao Ông Hổ, nơi đã nuôi dưỡng cậu tình yêu thương con người và tình yêu Tổ quốc tha thiết hơn bao giờ hết. Kể cả khi trở thành Chủ tịch nước, bác Tôn Đức Thắng vẫn ngong ngóng trở về với quê hương và những người thân yêu nhất của đời mình. Chính vì thế mà trong phòng lưu niệm còn giữ được tấm ảnh con tàu Giang Cảnh đưa bác Tôn về thăm quê hương ngay sau khi miền Nam được giải phóng. Đây chính là chiếc tàu của chế độ cũ để lại sau khi ta giải phóng Long Xuyên. Cùng với đó là chiếc phi cơ YAK-40 đã chở Chủ tịch Tôn Đức Thắng về Sài Gòn dự Đại lễ mừng ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vào ngày 15/5/1975. Thêm nữa, tại đây, chiếc ôtô nhỏ đã từng đưa bác Tôn đi làm việc bao năm tháng trên đường phố Thủ đô Hà Nội cũng được trưng bày như một sự hiện diện hình ảnh của bác rất thân thương. Ai cũng ngỡ như bác Tôn vừa bước ra với nụ cười hiền hậu, vẫy chào mọi người. Rồi đó là những phòng trưng bày những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nhất là những hình ảnh những ngày tháng bác bị giam cầm ở Côn Đảo. Những cánh cửa của phòng giam đặc biệt hiện lên hình ảnh những chiến sĩ bị tra tấn dã man làm xúc động lòng người. Bác Tôn đã bị giam cầm ở đây và đã cùng các đảng viên đấu tranh kiên cường để chống lại những đòn roi độc ác của giặc Pháp...

Đặc biệt, tôi dừng chân đọc lại trường ca Bài thơ Hắc Hải của cố thi sĩ Nguyễn Đình Thi viết về người anh hùng Tôn Đức Thắng trong cuộc khởi nghĩa của những thủy thủ trên chiến hạm Pa-ri ở hải cảng Ô-đet-xa năm 1918. Họ ủng hộ Cách mạng tháng mười Nga. Đó là hình ảnh anh thủy thủ sửa chữa tàu Tôn Đức Thắng leo lên cột cờ để treo lá cờ cách mạng, biểu thị tinh thần và lòng quả cảm của những người yêu nước, yêu cách mạng giải phóng dân tộc. Có đoạn tác giả viết, mà tôi đã không thể quên khi còn học phổ thông hơn 40 năm qua:

“... Hạ hết những lá cờ chết chóc

Đời xích xiềng đạp xuống biển khơi

Những con mắt từ nay thôi khóc

Kéo lên cờ Cách mạng tháng Mười

Anh chạy tới cột cờ cao nhất

Anh băng mình thoăn thoắt leo nhanh

Bóng anh mất trên trời sâu hút

Giữa gió gầm lồng lộng vùng quanh...”

Giờ đây, xã Mỹ Hòa Hưng (tên mới của Cù lao Ông Hổ) đã thay đổi từng ngày, từng giờ và trở thành điểm du lịch văn hóa, lịch sử của thành phố Long Xuyên. Khu Lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một di tích quốc gia đặc biệt, tạo dấu ấn tiêu biểu nhất tại ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng bên dòng sông Hậu. Còn phía bờ bên kia, tại trung tâm Long Xuyên, thành phố đã xây một tượng đài Chủ tịch Tôn Đức Thắng cao hơn mười mét. Tượng đài được xây nhìn về Cù lao Ông Hổ, đánh dấu hình ảnh Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nhớ về quê nhà. Nơi đó, bên dòng sông hiền hòa luôn vang lên những giọng hò, điệu lý ca ngợi quê hương ngàn năm thanh bình trong nghĩa tình sâu nặng của cuộc đời với câu chuyện cổ về tình người không bao giờ nhạt phai.

Bút ký của Duy Anh

 

 

 


Ý kiến của bạn