Về Bản Đôn

06-03-2009 08:09 | Văn hóa – Giải trí
google news

Nghe nhiều chuyện kể về Bản Đôn, tỉnh ĐăkLăk, tôi thấy lạ và nóng lòng muốn biết thực hư, nhưng khi về tới nơi mới vỡ lẽ lắm điều nghe không kỹ và cũng chỉ lơ mơ như nhiều người.

Nghe nhiều chuyện kể về Bản Đôn, tỉnh ĐăkLăk, tôi thấy lạ và nóng lòng muốn biết thực hư, nhưng khi về tới nơi mới vỡ lẽ lắm điều nghe không kỹ và cũng chỉ lơ mơ như nhiều người. Cũng may tôi gặp được anh Đàm Văn Thăng, người Tày trên Cao Bằng, lưu lạc tới đây lấy vợ người Êđê và làm hướng dẫn du lịch tại địa phương... Tôi hỏi lắt nhắt mọi thứ và Thăng nói khá chi tiết từng chuyện. Thật thú vị!

Chuyện nhà cổ

Tỷ như cái chuyện ngôi nhà cổ hơn 100 năm ở ngay Bản Đôn chẳng hạn. Người ta chỉ giới thiệu đây là nhà sàn cổ Tây Nguyên. Thực ra không phải mà đây là một nhà sàn theo đúng mẫu chùa tháp của người Lào - Thái và do chính người Lào dựng trong suốt 3 năm trời. Ông Vi Vông Khăm Sao thiết kế và tổ chức thi công. Ngôi nhà được khởi móng từ 7/10/1883 và làm đến tháng 4/1885 mới xong. Ngôi nhà sàn đặc biệt này đều bằng gỗ, kể cả mái cũng được đục tạo hình các viên ngói. Những người thợ đã phải vào rừng tìm cho được ba loại gỗ quý và bền như Hương, Cam xe, Ca chít để dựng nhà. Chủ nhân đầu tiên của hai ngôi nhà này có lẽ là một thương gia người Lào. Vì cách hơn trăm năm trước, Bản Đôn là một trung tâm giao thương sầm uất của biên giới 3 nước Việt - Lào - Miên. Sau đó, ông N’Thu K’nut (còn gọi là Y Thu), người được vua Thái phong danh hiệu “Vua voi”, mua lại với giá 10 con voi thời đó. Hiện nay ông Ama Kông, 92 tuổi, cũng được dân bản gọi là vua voi, là cháu ba đời của Y Thu được thừa kế ngôi nhà. Sau khi ngôi nhà cổ này trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa của Bản Đôn, ông Ama Kông để lại cho người con gái trông nom và ra ngoài xóm ở để chuyên kinh doanh rượu thuốc bổ.

Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên. 
Những người săn voi

Chuyện săn voi cũng liên quan tới ông Ama Kông. Trước kia người ta kể lại rằng ông Vua voi Y Thu người M’nông thọ 110 tuổi (1828 - 1938) săn bắt và thuần dưỡng được 170 con voi rừng. Sau đó, đến người cháu của ông là R’teo K’nul, kế tục sự nghiệp vua voi, cũng săn bắt tới vài trăm con voi và được xây mô bên cạnh Y Thu. Trong khu mộ Vua voi có hai mộ là vì vậy. Còn đến đời Ama Kông, người bản cũng kể rằng ông săn bắt được tới 100 con voi. Ngẫm thấy vô lý, mặc dù ở đây có rừng sinh thái lớn nhất nước ta là Yok Đôn, nơi bảo tồn voi cũng không thể nhiều voi đến thế. Nghe tôi thắc mắc, Thăng nhoẻn cười gật đầu tỏ ý chuyện săn hàng trăm con voi như vậy chỉ là huyền thoại. Anh còn nói thêm rằng, hiện Nhà nước đã có lệnh cấm săn bắt voi rừng nên ngay ở vài ba huyện quanh Buôn Đôn cũng chả còn mấy nhà nuôi được voi nữa. Việc cho voi ăn và chăm sóc voi cũng rất tốn kém không phải ai cũng có sức kham nổi. Vậy nên hiện chỉ còn ít nhà có voi hợp tác làm dịch vụ cho khách cùng với công ty du lịch tại bản.

Khúc tháng ba

Ngồi ăn ở gánh hàng bún cá, tôi hỏi cô Xáo Nàng Thơ người Lào xem có nhớ bài hát Tháng ba Tây Nguyên không. Mặc dù mới nghỉ học dở chừng phổ thông trung học nhưng Xáo Nàng Thơ lắc đầu do dự vì chưa nghĩ ra. Tôi lẩm nhẩm mấy câu trong bài hát:

“Tháng ba người Tây Nguyên chan chứa tình/ Con tim xao xuyến đôi môi hé cười/ Tháng ba mùa núi rừng sôi sục/ Tháng ba mùa hạnh phúc Tây Nguyên/ Ôi! Tháng ba tô thắm cuộc đời”.

(Thơ Thân Như Thơ - nhạc Văn Thắng)

Mùa lễ hội, mùa hội đua voi mà. Rồi bất ngờ Xáo Nàng Thơ reo lên và hát:

“Tháng ba mùa con ong đi lấy mật/ Mùa con voi xuống sông hút nước…”.

Thì ra bài hát này thật khó quên trong lòng người Tây Nguyên bất cứ ở nơi đâu. Người dân Bản Đôn cũng vậy. Cô bé Xáo Nàng Thơ phổng phao và mặn mà làm sao. Rồi sau đó có mấy cô bé rít rít chạy tới xúm quanh Thơ và trò chuyện về ngày lễ cúng bến nước và hội đua voi của những người Êđê, M’nông, Giarai... Tất cả như đang chờ cuộc đua voi vượt sông.

Tháng ba mùa hoa cà phê nở trắng những vạt đồi. Những con voi thủng thẳng chuẩn bị vào cuộc đua với những con số hoa vẽ trên mình. Nhưng người chỉ huy voi (còn gọi là nài voi) ngỡ như vào một cuộc đua sôi nổi nhất trong đời mình. Tôi háo hức chạy theo bước chân rộn ràng của cánh trẻ. Mấy chú voi vội chạy ào xuống dòng sông Sê Rê Pok đang cuồn cuộn chảy. Dường như các nài voi không lấy thắng thua làm chính mà chỉ coi đây là một cuộc chơi vào ngày hội vượt sông Sê Rê Pok. Đó là những chú voi đến từ các huyện Lăk, Krông Bông, Ea Súp cùng đua với các chú voi ở Buôn Đôn. Khi tiếng chiêng vang lên, tất cả các chú voi rùng rùng chạy và lội ào xuống sông. Có chú rống lên vui thú. Lại có chú dừng chân hít nước rồi ngỏng vòi thổi phì phì lên trời và chẳng coi cuộc thi là gì nữa. Chúng chơi, đùa vui và vẫn băng băng vượt sông. Hơn hai chục chú voi tạo nên một không khí như thế trận năm nào. Đội cồng chiêng thì rộn rã không kém. Tất cả các chàng trai vừa nhảy, vừa gõ chiêng thật náo nức. Ai nấy không biết mệt. Cả cánh rừng như rung lên trong gió lộng và những âm thanh cồng chiêng ầm vang. Một dòng thác âm thanh trôi mải miết trên dòng sông Sê Rê Pok. Những chàng trai Tây Nguyên đứng lên đầu voi múa roi và ca vang bài hát Tháng ba Tây Nguyên. Những âm hưởng ngây ngất của tháng ba đang bừng dậy...

Hẹn một mùa hoa cà phê

Hôm sau, thêm một chuyến dạo chơi đung đưa bồng bềnh với cầu treo trên sông Sê Rê Pok, đến gần trưa, tôi chia tay Đàm Văn Thăng bằng một chuyến đi thuyền độc mộc trên hồ Ea - rông. Con thuyền đi thật chậm trên hồ như sự lưu luyến thầm kín trong lòng tôi. Thăng chèo thuyền chở một mình tôi lênh đênh trên sóng nước. Tôi ngỡ ngàng nhìn những bông hoa cà phê trắng muốt, dịu ngát trôi nhẹ nhàng cùng những cánh bèo xanh mướt trên hồ. Trước mắt tôi, những vòng sóng quanh mái chèo như vẽ lên những ánh chớp vô tận hòa tan ánh sắc trong vắt của bầu trời xanh in trên mặt hồ. Xa xa chiếc cầu thang gỗ bước lên ngôi nhà sàn dài như hiện rõ trước mắt tôi. Đó cũng là hình con thuyền như đang vượt sóng. Và kia ở đầu cầu thang là hình mặt trăng đang soi vằng vặc trong những đêm mênh mang của núi rừng Tây Nguyên. Ngay ở dưới mặt trăng là hình điêu khắc bầu vú mẹ căng sữa, biểu tượng cho sự sống và phát triển của con người. Trong lòng tôi cứ xáo trộn những ý nghĩ về miền đất cao nguyên lộng gió này.

Khi đỡ tay tôi lên bờ, Thăng nhoẻn miệng cười tỏ ra hiểu những gì tôi đang nghĩ và nói rằng mong tôi có ngày trở lại, vào mùa hoa cà phê. Còn tôi cứ lang thang đi dọc con đường dài dẫn từ Bản Đôn ra đường lớn. Tôi đếm từng bước như muốn níu kéo những hình ảnh của dòng sông Sê Rê Pok cuồng nhiệt đã để lại dấu ấn trong lòng tôi. Rồi! Tôi đột nhiên thốt lên tiếng như một lời đáp lại và hẹn rằng có ngày trở về: Đất đỏ Ba Zan ơi!

Vương Tâm


Ý kiến của bạn