Trên thực tế ung thư đường mật ít gặp hơn ung thư gan, thường phát hiện khá muộn, chẩn đoán vô cùng khó khăn, khi đã chẩn đoán ra bệnh thường đã quá muộn.
Theo thống kê, hàng năm có khoảng 6000 trường hợp mắc mới ung thư biểu mô đường mật ở Mỹ. Độ tuổi trung bình chẩn đoán trung niên từ 50 đến 70 tuổi. Tỷ lệ nữ nhiều hơn nam từ 1,2 – 1,5 lần.
Hiện nay, phát hiện sớm ung thư đường mật còn rất khó khăn, đặc biệt là khi có kết hợp sỏi đường mật. Đa số trường hợp khi phát hiện đã có xâm lấn các mạch máu quan trọng của gan, gây khó khăn cho phẫu thuật triệt để cắt bỏ khối ung thư.
Hầu hết các u đường mật là u ác tính
Vàng da là triệu chứng phổ biến nhất, xuất hiện ở khoảng 90% các trường hợp. U vùng ống gan chung có triệu chứng sớm hơn u các ống gan phải và trái. Đau bụng xuất hiện ở 30-50% bệnh nhân. Đôi khi bệnh nhân vào viện vì sốt nhiễm trùng đường mật.
Các triệu chứng khác có thể gặp như: ngứa toàn thân, thiếu máu, chán ăn sụt cân.
Trong các trường hợp muộn, người bệnh có xuất hiện báng bụng (có dịch trong bụng). Cản trở đường mật có thể gây nên những vấn đề thứ phát nghiêm trọng. Đầu tiên, những bệnh nhân tắc mật sẽ dẫn đến viêm đường mật.
Cấy mật ở những bệnh nhân có cản trở đường mật thì phát hiện nhiễm vi khuẩn ở 32% bệnh nhân. Klebsiella, E. coli, và Streptococcus faecalis là những tác nhân thường gặp nhất . Dẫn lưu hiệu quả đường mật và điều trị kháng sinh khi bất kỳ một thủ thuật nào về đường mật được thực hiện là then chốt.
Một vấn đề thứ phát thường gặp là thiếu nước và dinh dưỡng ở những bệnh nhân tắc mật trầm trọng do buồn nôn, nôn, và mệt mỏi toàn thân. Do đó bổ sung đầy đủ lượng nước thiếu và dinh dưỡng cho người bệnh rất quan trọng để tránh những biến chứng nặng sau phẫu thuật.
Các yếu tố thuận lợi dẫn đến ung thư đường mật
Sỏi mật là nguyên nhân ngoại khoa chính gây ra tình trạng vàng da nhưng nguyên nhân đáng sợ nhất là ung thư đường mật. Vàng da do các u lành tính rất hiếm gặp, các khối u phát hiện trên đường mật đa số là ác tính.
Ung thư đường mật ít gặp hơn ung thư gan nhưng bệnh thường được phát hiện khá trễ, ảnh hưởng đến kết quả điều trị và thời gian sống còn của bệnh nhân.
Việc bị nhiễm trùng mạn tính, nhiễm ký sinh trùng, tiếp xúc các hóa chất dùng trong công nghiệp cao su, có nang đường mật, xơ gan bẩm sinh, viêm đường mật xơ hóa nguyên phát, viêm loét đại tràng là các yếu tố thuận lợi đối với ung thư đường mật.
Ung thư đường mật trên bệnh nhân viêm loét đại tràng có khuynh hướng diễn tiến trầm trọng hơn.
Ung thư đường mật được mô tả lần đầu tiên bởi Durand –Fardel vào 1840. Tài liệu báo cáo tổng hợp đầu tiên được thực hiện bởi Stewart và cộng sự vào năm 1940 . Vào năm 1965, nhà phẫu thuật Gerald Klaskin đã công bố những nhóm bệnh nhân đầu tiên với ung thư đường mật (carcinoma đường mật) ở rốn gan, và giới thiệu khái niệm phẫu thuật tận gốc về bệnh đường mật
Tuy nhiên, tại thời điểm đó việc phẫu thuật có liên quan với tỉ lệ tử vong và thất bại cao. Thêm vào đó do thiếu những kỹ thuật chẩn đoán phù hợp nên bệnh thường được chẩn đoán trễ dẫn đến không còn khả năng điều trị.
Mặc dù ung thư biểu mô đường mật là một ung thư phát triển chậm với khuynh hướng di căn muộn, nhưng đường đi của sự thâm nhiễm và những cấu trúc chức năng liên quan đến sự sống còn của cơ thể đã ngăn cản sự cố gắng điều trị của hầu hết các trung tâm cho đến hiện nay. Vào cuối thập niên này đã đưa ra những phát triển mới về x quang học, dạ dày - ruột học và phẫu thuật với một hy vọng cho việc điều trị ở một số lớn bệnh nhân ngày nay.
Xem thêm video đang được quan tâm
Hướng dẫn dạy nhảy Vũ điệu 5K