Ước mơ nơi hồ Bản Vẽ

12-07-2015 07:00 | Thời sự
google news

SKĐS - Rất nhiều người dân thuộc các xã vùng lòng hồ thủy điện Bản Vẽ (Tương Dương, Nghệ An) được tái định cư về nơi ở mới...

Rất nhiều người dân thuộc các xã vùng lòng hồ thủy điện Bản Vẽ (Tương Dương, Nghệ An) được tái định cư về nơi ở mới, nhưng do thiếu đất sản xuất, họ lại di cư ngược về lòng hồ.  Cuộc sống của họ chưa thôi nhọc nhằn, khi mà phải sống phụ thuộc vào thiên nhiên, lòng hồ nước mênh mông với nghề đánh cá. Mưa gió luôn đe dọa cuộc sống của họ, và trong nếp sống nhọc nhằn ấy, lúc nào người dân cũng ao ước ngày mai đổi khác.

Nhiều cư dân quay về sống tựa vào lòng hồ.

Phận người giữa sóng nước

Chúng tôi xuôi dốc xuống bến đò. Người đàn ông gần 50 tuổi ngồi hút thuốc lào vã đợi khách bật dậy như lò xo. Tiếng anh lơ lớ tội nghiệp. Địa điểm, thời gian chờ và chờ đợi được tính toán; giá cả được thỏa thuận. Hỏi ra, người lái thuyền tên Vi Văn Tiến ở xã Hữu Dương, nơi đã phải di dời toàn bộ về vùng tái định cư (TĐC) mãi tận huyện Thanh Chương, nhường chỗ chứa nước hồ thủy điện. “Nhưng tui không đi đâu làm ăn được, đành về”. Anh Tiến buông một câu xuống mặt nước hồ xanh rờn rợn. Tiếng động cơ khiến cả khu lòng hồ và rừng núi đang trổ lộc non bớt cô quạnh, nhưng người lái thuyền vẫn khuôn mặt khắc khổ.

Được biết, theo chủ trương di cư, anh và vợ con đã về Thanh Chương nhưng thiếu đất sản xuất, quá túng đói, năm 2011 anh đành bỏ vợ con lại, rủ thêm vài người quay về quê cũ làm nghề lái thuyền. “Tui về lái thuyền thì nhiều người khác cũng về thôi. Khách vắng nhưng vẫn phải chia nhau để cùng sống. Khách là cán bộ xã đi lại, người dân, khách du lịch”, anh Tiến tâm sự, nghe như tiếng nước trút từ trên cao se sắt. Rồi anh chỉ về những nếp nhà tranh thấp tè chẳng cao hơn mặt nước hồ bao nhiêu: “Đó, lúc mưa thì khổ lắm, phải chuẩn bị tinh thần ứng phó với hoàn cảnh xấu nhất. Nhà bé, không kiên cố nên phải giằng dây thật chắc. Đã nhiều nhà bị gió cuốn rồi”.

Có đến 70 người, cả đàn ông và phụ nữ lái thuyền thuê như anh Tiến, ngày vắng khách cập đầy bến Thượng Lưu. Thuyền dân sinh cũng có vài chục chiếc. Mỗi ngày gom góp dôi dư được vài chục nghìn đồng, đủ để anh hy vọng và sưởi ấm lòng các thành viên khác. Cách đó mấy trăm mét là công trình thủy điện đồ sộ nhưng biết bao hộ dân lòng hồ vẫn chưa được hưởng nguồn sáng, vẫn phải thắp đèn dầu dù họ nhường đất. Nhiều người lái thuyền sống cảnh chia rẽ, vợ ở lại vùng TĐC Thanh Chương, con gửi đi học ở một xã khác, còn bản thân neo vào lòng hồ như là định mệnh. Mưu sinh ở vùng TĐC hay ở lòng hồ, nỗi vất vả giống nhau, nhưng ở lòng hồ còn có ngày khách đông hơn, cá sinh sôi nhiều hơn. Họ làm tạm một túp lều lớp cỏ gianh, lá cọ trên bè tre bên mép nước làm chỗ trú ngụ lúc đêm về. Anh Tiến làm lều ở khu vực xã Nhôn Mai, anh Vi Văn Huân làm lều ở khu vực bản Xiềng Lằm xã Hữu Khuông, anh Lô Văn Diệu trú ngụ ở khu vực bản Lạp xã Kim Tiến... Thi thoảng thả một tay lưới bên mép hồ kiếm vài con cá cải thiện bữa ăn.

Hoang mang...

Người lớn thì như vậy, lứa trẻ con cũng chung nỗi thiệt thòi. Nào thiếu ăn, nào thất học. Tiêu biểu nhất là bản Kim Hồng (xã Hữu Khuông), với 38 hộ trở về khu vực lòng hồ, thì có tới 30 em trong độ tuổi không được đến trường. Thậm chí ở bản Chà Coong, bà con “cố thủ” không ai chịu dời đến khu TĐC, sống kiểu tự do nên không ít đứa trẻ chẳng có nổi tờ giấy khai sinh. Em Lô Thị Tho, lấy chồng sớm, năm nay 18 tuổi đã có hai con, cho biết: “Như nhiều bác đã kể đấy chú. Nhà cháu không chịu đi đến nơi ở mới, nên từ năm 2009 thì chẳng thuộc xã nào cả. Vậy là trẻ con không được đi học”.

Đang tâm sự với chị Tho thì chị Lương Thị Tiên ghé sang mời tôi đến nhà. Mấy đứa trẻ lúi húi trong góc bếp e thẹn nhìn khách. Mặt đứa nào cũng nhem nhuốc, mốc meo nhưng đôi mắt thì to tròn. Chị Tiên thổn thức: “Bọn trẻ thích đi học lắm, nhưng ở đây không có trường, có lớp. Muốn học thì phải về huyện Thanh Chương”.

Trong hành trình tìm hiểu khu vực lòng hồ, có biết bao hộ dân bấp bênh. Nước dâng thì nhà dâng, vào mùa cạn nước, thủy điện vẫn xả, thuyền không đi được thì người dân “mắc cạn” giữa lòng hồ. Dù nước quá sâu hay quá cạn thì đều ngăn cách người dân với thế giới bên ngoài. Thống kê cho thấy, người dân khu vực có nhiều “không” quá. Nào là không điện, không đường; trẻ em thì không được đi học, khám chữa bệnh, không có giấy khai sinh và... không có tương lai. Bởi thế nhiều người mẹ làm con chết oan vì không kịp xuống trạm y tế xã để sinh. Chẳng ít hộ “ngoài vòng pháp luật”, nên chính quyền không thể kiểm soát. Phòng Giáo dục huyện Tương Dương cũng không thể kiểm đếm đầy đủ con số học sinh không được đến trường, mà chỉ áng chừng gần 70 em, thuộc khu TĐC Thanh Chương, chưa kể số em ở bản Chà Coong và nhiều xóm sống tự do khác. Trước vấn đề nhức nhối này, anh Vi Văn Diệu, Trưởng công an xã Hữu Khuông tỏ ra lo ngại: “Xã có bốn bản sống lênh đênh trong khu vực lòng hồ là Huổi Pủng, Bản Xan, Nuôi Cọ, Pủng Bón; và Kim Hồng cạnh mép hồ. Tất cả họ đến nay đều trong diện nghèo cả. Nhiều bậc cha mẹ không chịu xuống Thanh Chương, và họ không đủ điều kiện nghĩ đến tương lai của con. Nếu trẻ em cứ không được đi học thì nguy to”!

Mang nỗi lo lắng này hỏi ông Vi Tân Hợi, Phó Chủ tịch UBND huyện Tương Dương. Ông Hợi cho biết: Đích thân ông cũng đã đến các hộ vận động các gia đình cho con đi học. Hộ nào thuộc diện ở khu TĐC về thì phải đóng góp cho con, chứ không được hưởng ưu tiên. Do đường thủy xa, nguy hiểm, việc đi lại rất tốn kém, trong khi các gia đình còn đang thiếu ăn. Thế là họ... quên luôn chuyện học hành của con cái!

Những người lái thuyền luôn khát khao cuộc sống bình yên.

Mong ước giản đơn

Việc tìm người dân ở những nếp nhà gianh chẳng dễ dàng gì. Bởi người thì lên nương rẫy trồng sắn và ngô, người xuống hồ kiếm cá. Những đứa trẻ cũng tham gia vào việc kiếm tìm con tôm con cá. Trở lại “nhà nổi” của chị Vi Thị Hồng, người bán tạp hóa trên lòng hồ để gặp những người đàn ông đợi khách. Nghe họ nói về dự định, giấc mơ và mong lắm những điều ấy sớm thành hiện thực.

Người thì mơ đông khách đi thuyền. Bởi thuyền được đóng bằng tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Nó là khối tài sản lớn nên họ yêu chiếc thuyền như chính bản thân mình. Rồi họ học cách để biết mời mọc, mặc cả, biết chắt chiu tích lũy và tính toán như người miền xuôi vẫn làm. Cuộc sống dạy họ phải nói nhiều hơn, không chỉ bằng tiếng của địa phương mình. Một số người đã vui mừng được chở khách nước ngoài. Khách nói gì họ cũng chẳng hiểu, nhưng nở nụ cười suốt hành trình. Khách hỏi giá, không hiểu thì tùy mức độ xa gần mà viết ra giấy. Tất nhiên khách hiểu ý. Sau những lần cập bờ, khách thường “boa” thêm.

Người lái thuyền khấp khởi vui vì khách nói: “hẹn gặp lại”! Họ đã đưa bao người về bến, nhưng họ không biết bản thân bao giờ mới được cập vào một bến bình yên. Phút giây ngơi nghỉ sau khi đưa tôi thăm những người bà con đã bỏ vùng TĐC về lại bản quán, anh Tiến vẫy thêm những người lái thuyền khác tiếp chuyện. Họ đưa tôi trở về mảnh đất khắc nghiệt và gần như biệt lập này bằng những câu chuyện dí dỏm đầy kỳ bí. Trước đây dòng nước chính là thượng nguồn sông Nậm Nơn với nhiều ghềnh thác. Nghề lái thuyền vất vả gấp trăm lần bây giờ, không chỉ bởi phương tiện thô sơ, mà họ luôn bị gây khó khăn bởi ghềnh thác hiểm nguy. Nhưng kiếm cá dễ hơn. Chỉ cầm cái que nhọn ngồi trên bờ cũng có thể xiên được.

Nguyện vọng các của người dân là được an cư. Chính những bất cập của công tác này đã đẩy họ vào hoàn cảnh nghèo thêm vì thủy điện. Người dân đang chấp nhận cuộc sống tự cung tự cấp và có cái lý của riêng mình. Nhưng dù thế nào thì cũng phải khẳng định, bỏ về quê cũ, sống tự do là lựa chọn sai trái, đi ngược chủ trương của Nhà nước. Hiện nay các cơ quan chức năng ở Tương Dương, cao hơn là tỉnh Nghệ An đang tìm cách tháo gỡ khó khăn. Mong rằng đời sống của cư dân vùng lòng hồ sớm được ổn định, cho họ một cái nghề phù hợp, để những đứa trẻ khỏi sống nheo nhóc, có tương lai sáng hơn.

Người dân đã sống bản năng và kiệt cùng hy vọng. Họ vẫn tin ngày mai đông khách hơn hôm nay, hôm qua. Nguồn cá lòng hồ sẽ không bao giờ vơi cạn. Và mỗi vị khách đến vùng đất này, không chỉ để lại những dấu chân.

Bài, ảnh: Anh Khoa

 

 


Ý kiến của bạn