Trong những thời gian qua, tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng khi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc có hoạt động vi phạm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực Nam Biển Đông đã khiến dư luận quan tâm. Để nhìn nhận rõ hơn về mục tiêu của Trung Quốc , những khía cạnh pháp lý cũng như những kịch bản có khả năng xảy ra tiếp theo … phóng viên Báo Sức khỏe&Đời sống đã có cuộc trao đổi với TS Trần Công Trục – nguyên Trưởng ban Ban Biên giới Chính phủ về vấn đề này. TS Trần Công Trục là một trong những người đầu tiên tham gia biên dịch các tài liệu và nội dung Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982 ra tiếng Việt.
TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Ban Biên giới Chính phủ
Phóng viên: Thưa ông, qua những diễn biến gần đây trên Biển Đông, những phản ứng của Việt Nam cũng như những lập luận của Trung Quốc, là chuyên gia nghiên cứu về pháp lý, chính trị, ông có thể cho biết nhận xét của mình về vấn đề này? Trung Quốc đã có hành vi vi phạm thế nào chiểu theo Công ước LHQ về Luật Biển?
TS Trần Công Trục: Qua nghiên cứu tôi cho rằng, trong khoảng thời gian 10 ngày từ 16-25/7, đã 3 lần Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng về những diễn biến xảy ra trên khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam mà Trung Quốc triển khai nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8. Sự phản ứng kịp thời này đã nhận được sự đồng tình, chia sẻ, ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước. Ngoài ra , Việt Nam còn trao công hàm phản đối, gặp gỡ các quan chức của Trung Quốc , cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng , báo chí góp thêm những tiếng nói để rộng đường dư luận.
Bên cạnh những ý kiến ủng hộ, có không ít những ý kiến cho rằng, Việt Nam phản ứng chưa đủ, chưa đúng . Thực tế là phía Việt Nam khẳng đinh, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc từ đầu tháng 7 đã đi sâu vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng, khu vực bãi Tư Chính là một bộ phận của Quần đảo Nam Sa, thuộc chủ quyền bất khả xâm phạm của Trung Quốc.
Căn cứ vào công ước Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên và các văn bản pháp lý liên quan, ta thấy lập trường của Việt Nam rất đúng ở các điểm sau: Vụ việc xảy ra ở bãi Tư Chính và một số bãi cạn nằm ở phía Nam Biển Đông cách đường cơ sở không đến 200 hải lý. Với khoảng cách này, căn cứ Công ước Luật biển năm 1982, quy định các quốc gia ven biển có quyền xác lập vùng đặc quyền kinh tế cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Luật Biển Việt Nam cũng công bố điều kiện khoảng cách đó, đó là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tức là bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là điều không thể chối cãi.
TS Trần Công Trục giải thích về cơ sở pháp lý của bãi Tư Chính
Xét ở phương diện khác, liên quan đến thềm lục địa - tức là đáy và lòng đất dưới đáy biển – đó là sự kéo dài của lục địa ra biển. Theo định nghĩa của công ước, ở nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa đó chưa đến 200 hải lý thì nước ven biển có quyền mở rộng ranh giới đó ra 200 hải lý, còn nơi nào thềm lục địa đó quá 200 hải lý thì nước ven biển có quyền xác định ranh giới ngoài đến 350 hải lý tùy theo tiêu chuẩn địa chất địa mạo. Những tài liệu đó phải được gửi lên tiểu ban các nước thềm lục địa của LHQ. Tóm lại khu vực này rõ ràng có tính chất kéo dài vượt qua 200 hải lý và Việt Nam cũng đã có những bộ hồ sơ trình lên LHQ về vấn đề này.
Như vậy, dù lý lẽ nào bãi Tư Chính vẫn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Chỉ riêng căn cứ 200 hải lý, Việt Nam hoàn toàn có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với bãi cạn này.
Theo Công ước LHQ về Luật biển, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của công ước về việc: lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; các quyền và các nghĩa vụ khác do công ước quy định.
Các quốc gia khác có biển và không có biển có 3 quyền khi đi vào vùng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa. Các quốc gia đó phải tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển.
Tuy nhiên, nếu các quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Bãi Tư chính (vùng kẻ) nằm hoàn toàn trong phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở
Các quốc gia ven biển có quyền tài phán với các công trinh, đảo nhân tạo, công trình phục vụ khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, nghiên cứu thăm dò phải được tôn trọng, không được xâm phạm vào khu vực cách đó là 500m. Nếu xâm phạm là vi phạm quyền tài phán đối với quốc gia đó.
Hiện nay, các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của Việt Nam như xây dựng nhà giàn, khai thác dầu khí, cụm dịch vụ phục vụ khoa học kỹ thuật…. là những công trình nhân tạo trên thềm lục địa của Việt Nam. Xét về địa chất, địa mạo đáy biển, xét về quá trình thực thi chủ quyền và về mặt kinh tế, những bãi cạn đó hoàn toàn nằm trên thềm lục địa Việt Nam.
PV: Là người nghiên cứu lâu năm về Luật Biển cũng như Trung Quốc, xin ông cho biết Trung Quốc đã dựa trên những lập luận vô lý thế nào để dẫn đến những hành động hiện nay?
TS Trần Công Trục: Trung Quốc cho rằng tất cả bãi cạn đó là thực thể , một bộ phận của quần đảo Nam Sa, thực chất là quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Lập luận của Trung Quốc có 2 điểm sai.
Sai thứ nhất là theo luật pháp quốc tế, các bằng chứng lịch sử, Việt Nam có chủ quyền với quần đảo Trường Sa, chúng ta có đầy đủ căn cứ pháp lý để chứng minh điều đó. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng bác bỏ lập luận của Trung Quốc đối với quần đảo này.
Thứ hai, các bãi cạn này tách biệt hoàn toàn với quần đảo Trường Sa, các bãi cạn này luôn chìm dưới mặt nước, và giữa nó với Trường Sa luôn có rãnh sâu ngăn cách. Việc Trung Quốc biện hộ rằng các bãi cạn này thuộc quần đảo Trường Sa là hoàn toàn sai trái.
Quan điểm của Trung Quốc chứa đựng âm mưu mở rộng vùng biển, chứng minh yêu sách đường lưỡi bò là có cơ sở pháp lý, nhưng cơ sở này lại dựa trên sự hiểu sai Công ước Luật biển của LHQ. Bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa Việt Nam đã được Việt Nam sử dụng và khai tác đặc quyền kinh tế từ lâu, nên không thể là vùng đang có tranh chấp. Trung Quốc đang âm mưu biến vùng biển này từ vùng không có tranh chấp trở thành vùng có tranh chấp để gây căng thẳng trên Biển Đông.
Trong lịch sử, Trung Quốc từng bị Phillippines đưa ra Tòa án Quốc tế vì áp dụng sai công ước LHQ. Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể tự tin khẳng định rằng bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, dựa trên những lập luận rất đúng đắn, xuất phát từ cơ sở pháp lý và khoa học khách quan.
PV: Theo ông kịch bản nào có khả năng xảy ra tiếp theo? Liệu rằng những hành động “bắt nạn” của nước lớn như Trung Quốc đối với nước nhỏ có tiếp tục lặp lại không?
TS Trần Công Trục: Dư luận cho rằng đây được coi là “phép thử” mà Trung Quốc áp dụng để đo phản ứng của Việt Nam giống như những hành động trước đây mà nước này đã tiến hành.
Qua nhiều năm nghiên cứu, tôi cho rằng, đây không phải nguyên nhân chủ yếu. Dựa vào bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, xét về sự phát triển của Việt Nam trong các mặt từ kinh tế đến ngoại giao với các nước khác, điều mà Trung Quốc đang muốn thực hiện là âm mưu gây rối, phá hoại, cản trở sự phát triển của Việt Nam, từ đó buộc chúng ta phải có những nhân nhượng, thậm chí là phụ thuộc vào họ trong nhiều lĩnh vực.
Khu vực thềm lục địa này chúng ta đã tiến hành các hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí từ rất lâu. Đây là một nguồn thu lớn của đất nước. Nếu ở đây tình hình bất ổn, sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu này, làm suy yếu sức mạnh kinh tế của Việt Nam.
Trung Quốc muốn tính toán tìm mọi cách đưa vấn đề vào”sự đã rồi”, biến vùng không có tranh chấp thành vùng tranh chấp, xí phần tài nguyên….. Khi đạt được điều này, Trung Quốc sẽ buộc các nước liên quan chấp nhận yêu sách của họ mà lớn nhất là công nhận đường lưỡi bò. Tham vọng độc chiếm biển Đông của Trung Quốc rất rõ, nước này sẽ dùng biển Đông giành lấy vị trí siêu cường trong khu vực.
Theo tôi, nhóm tàu này sẽ hoạt động 1 thời gian rồi sẽ rút, nhưng sau đó có thể sẽ tiến hành những bước tiếp theo để hiện thực hóa những điều tôi đã phân tích ở trên.
Bắt nạt, đe dọa các quốc gia trong khu vực là điều mà chúng ta từng chứng kiến Trung Quốc làm từ xưa đến nay. Như vụ Phillippines thắng kiện Trung Quốc ở Tòa quốc tế tuy nhiên những phán quyết của tòa trọng tài quốc tế không được Trung Quốc thực thi. Nên những hành động, ứng xử của Việt Nam về vụ việc lần này cần được cân nhắc, tính toán cẩn trọng.
PV: Thưa ông, có ý kiến cho rằng việc khởi kiện Trung Quốc nên được Việt Nam xem xét. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?
TS Trần Công Trục: Với những phân tích của tôi ở trên, những diễn biến cũng như âm mưu của Trung Quốc, tôi nghĩ rằng trước hết chúng ta cần tận dụng sự ủng hộ quốc tế, kiên trì đấu tranh ngoại giao. Tôi cho rằng, sự phản ứng lần này của Việt Nam kể cả về mức độ, nội dung của những phát biểu công khai hiện nay là đúng với phạm vi, mức độ vi phạm của Trung Quốc.
Về việc khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, tôi nghĩ Việt Nam cần suy xét kỹ về tính hiệu quả, nội dung. Như trước đây, Philippines từng kiện Trung Quốc giải thích, áp dụng sai công ước, chúng ta cũng có thể xem xét khởi kiện việc Trung Quốc áp dụng Công ước Luật Biển của LHQ, biến bãi cạn thành các đảo, hay hoạt động trên thềm lục địa của Việt Nam ….
Nếu có kiện, chúng ta cần tính cả thời điểm nữa. Có thể là kiện lúc này có hiệu quả hơn, góp phần vào việc ngăn cản những vi phạm tiếp theo của Trung Quốc. Tất cả đều cần được cân nhắc, tính toán kỹ, chúng ta nên chủ động trước mọi diễn biến, không để bị đưa vào “sự đã rồi” như nói ở trên.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, không quốc gia nào muốn gây xung đột. Đấu tranh ngoại giao, pháp lý, dư luận vẫn là những biện pháp mang lại nhiều hiệu quả. Bởi trong thời buổi hiện nay không quốc gia nào có thể một mình mà phát triển.
PV: Vậy chúng ta nên có những ứng xử và hành động thế nào thưa ông?
TS Trần Công Trục: Qua theo dõi trên báo chí, tôi nhận thấy các lực lượng chấp pháp của chúng ta vẫn khôn khéo kiềm chế, yêu cầu tàu Trung Quốc rút lui, không để Trung Quốc kiếm cớ làm lớn lên….đẩy tình hình tới xung đột.
Mặt khác, các lực lượng của ta vẫn thu thập thông tin, bằng chứng để chúng ta đấu tranh bằng con đường ngoại giao và luật pháp quốc tế.
Từ những động thái và phản ứng của Việt Nam, tôi cho rằng và chúng ta làm đúng, đủ mức độ, tạo hiệu ứng tốt, được dư luận quốc tế ủng hộ. Điều này cho cộng đồng quốc tế thấy được Việt Nam vừa kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, vừa thượng tôn pháp luật, không muốn đẩy mọi tranh chấp đến đối đầu, xung đột.
Theo tôi, chúng ta có thể nghiên cứu thêm những phương pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn, nhưng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý, có thể là đưa lên LHQ, kêu gọi các nước ủng hộ, chuẩn bị mọi tình huống có thể xảy ra, không nên chủ quan, cần phải chủ động phân tích, đánh giá tình hình để đưa ra phương hướng giải quyết, không chờ sự việc xảy ra rồi mới xử lý theo vụ việc.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!