Trước đây, khi Việt Nam chưa có những kỹ thuật cao cấp hiện đại, đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI trong nuôi cấy phôi và chẩn đoán hình ảnh cho những trường hợp vợ chồng lớn tuổi, suy giảm dự trữ buồng trứng, không có tinh trùng, thất bại làm tổ nhiều lần do chất lượng phôi chưa tốt và các bất thường trong buồng tử cung… khiến họ rất khó có cơ hội sinh con.
Xu thế tất yếu của điều trị hỗ trợ sinh sản là ứng dụng công nghệ. Hiện nay những công nghệ máy móc và kỹ thuật cao cấp hàng đầu thế giới đã được ứng dụng tại Việt Nam, đồng thời trình độ của đội ngũ chuyên gia đã phát triển vượt bậc đưa ngành Hỗ trợ sinh sản không ngừng phát triển từ thủ công đến hiện đại.
Ứng dụng công nghệ cao trong hỗ trợ sinh sản mang đến niềm vui được làm cha mẹ cho nhiều gia đình. Ảnh minh họa.
Hiện có 8 kỹ thuật hiện đại đang được ứng dụng trong hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam:
1. Ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu
Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP) trong điều trị nội mạc tử cung mỏng ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm là kỹ thuật điều trị mới ở Việt Nam. Với phụ nữ khó có thai do nội mạc tử cung mỏng, giảm khả năng làm tổ của nội mạc tử cung, huyết tương giàu tiểu cầu giúp cải thiện niêm mạc, tăng cơ hội cho thai làm tổ.
2. Hệ thống tủ nuôi cấy phôi động học (Timelapse)
Hệ thống tủ nuôi cấy phôi gắn camera quan sát liên tục ghi lại hình ảnh phôi suốt quá trình phát triển. Chuyên viên phôi học quan sát, đánh giá từng thay đổi nhỏ của phôi mà không cần đem phôi ra môi trường bên ngoài như tủ cấy thông thường. Điều này đảm bảo nhiệt độ, môi trường, độ pH ổn định và giống tự nhiên nhất để phôi phát triển ổn định.
3. Trí tuệ nhân tạo
Sử dụng phần mềm trí tuệ nhân tạo (AI) trong hỗ trợ sinh sản là cuộc cách mạng về công nghệ trong ngành hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam.
Hệ thống tủ nuôi cấy gắn camera quan sát liên tục kết hợp với phần mềm phân tích phôi áp dụng trí tuệ nhân tạo giúp chuyên viên phôi học lựa chọn được các phôi tốt nhất để chuyển vào buồng tử cung. AI đánh giá chất lượng phôi thai bằng thuật toán tiên tiến giúp chọn phôi có khả năng thụ thai thành công cao nhất.
4. Phác đồ kích thích nhẹ buồng trứng
Phác đồ kích thích nhẹ buồng trứng sử dụng thuốc liều thấp nhằm giảm số lần tiêm kích trứng, hạn chế quá kích buồng trứng, an toàn và thân thiện với bệnh nhân. Phác đồ này cũng giúp quá trình IVF diễn ra nhẹ nhàng, hạn chế tác dụng phụ và giảm chi phí điều trị, mang đến cơ hội sinh con cho nhiều phụ nữ có dự trữ buồng trứng (AMH) rất thấp, buồng trứng đa nang.
5. Kỹ thuật trưởng thành noãn non
Trưởng thành noãn non trong ống nghiệm (IVM) là kỹ thuật chọc hút noãn ở giai đoạn noãn non và nuôi trưởng thành trong môi trường ống nghiệm.
IVM có ưu điểm ít xâm lấn, hạn chế đau là giải pháp phù hợp cho phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang hoặc buồng trứng có hình ảnh giống đa nang, không đáp ứng kích thích buồng trứng. Thực hiện IVM không cần tiêm hormone có thể giảm nguy cơ biến chứng, nhất là tình trạng quá kích buồng trứng.
6. Vi phẫu micro-TESE
Micro-TESE là kỹ thuật hiện đại tìm tinh trùng cho nam giới vô tinh, hạn chế sang chấn và tránh phá hủy chức năng tinh hoàn, tăng khả năng tìm thấy tinh trùng so với kỹ thuật TESE thường quy.
Phương pháp trích tinh trùng từ mào tinh và tinh hoàn (micro-TESE) kết hợp với kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI) giúp bệnh nhân có con chính chủ, tiết kiệm tối đa thời gian và chi phí điều trị.
7. Sàng lọc di truyền trước làm tổ
Có nhiều bệnh lý di truyền từ cha mẹ và thế hệ trước có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thế hệ sau. Xét nghiệm di truyền phôi trước làm tổ (PGT) là một trong những phương pháp có thể can thiệp nhằm ngăn ngừa các bệnh lý này di truyền. Nhờ đó vợ chồng lớn tuổi, mang gene bệnh, tiền sử sinh con dị tật... được sàng lọc phôi có chất lượng tốt nhất để cấy vào tử cung, tăng khả năng thành công, giảm số chu kỳ thụ tinh nhân tạo, sinh con khỏe mạnh.
8. Thủy tinh hóa trữ đông giao tử (noãn, tinh trùng), phôi
Công nghệ trữ đông trứng hoặc noãn và phôi bằng Cryotop (thủy tinh hóa) giúp nhiều phụ nữ có cơ hội trữ đông trứng/noãn sớm. Kỹ thuật này giúp cho tỷ lệ noãn sống sau rã đông đến 97%, gần gấp ba so với phương pháp cũ (đông lạnh chậm), tỷ lệ thụ thai từ noãn trữ lên tới 74,4%.