Nhân dịp đầu xuân năm mới, về vấn đề này, Sức khỏe & Đời sống cuối tuần xin trân trọng giới thiệu các ý kiến chỉ đạo và đóng góp của PGS.TS.BS. Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ trưởng Bộ Y tế; GS.TS.BS. Nguyễn Tấn Bỉnh - Giám đốc Sở Y tế TP.HCM; PGS.TS.BS. Nguyễn Trường Sơn - Giám đốc BV. Chợ Rẫy; PGS.TS.BS. Nguyễn Hoàng Bắc - Giám đốc BV. Đại học Y Dược TP.HCM; TS.BS. Trần Vĩnh Hưng - Giám đốc BV. Bình Dân TP.HCM.
HƯỚNG TỚI TÔN TRỌNG CÁC QUYỀN VÀ PHẨM GIÁ CỦA TỪNG NGƯỜI BÊNH
PGS.TS.BS. Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ Trưởng Bộ Y tế
Ngành Y tế Việt Nam cùng hòa trong nhận thức toàn cầu rằng càng tăng cường khám chữa bệnh kỹ thuật cao là chìa khóa chăm sóc sức khỏe người dân tốt hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống và có thể ngăn ngừa nhiều trường hợp tử vong. Qua đó hướng tới tôn trọng các quyền và phẩm giá của từng người bệnh.
Ngành Y tế Việt Nam trong những năm qua đã ngày càng đẩy mạnh chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật cao trong khám và điều trị bệnh; tiến tới chuyên sâu hóa các lĩnh vực nhằm nâng cao giá trị của từng bệnh nhân. Trong đó, y tế đã phát triển công nghệ trong lĩnh vực y tế dự phòng và khám chữa bệnh ở Việt Nam: sản xuất vắcxin trong Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia, áp dụng các kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị y khoa như CTscan, MRI, PET-CT, Gama Knife, xạ trị, công nghệ gen, sử dụng robot trong phẫu thuật...
Hiện nay, Việt Nam có hơn 1.450 bệnh viện công và 215 bệnh viện tư nhân, với tổng số hơn 199 nghìn giường bệnh, đạt tỉ lệ 22,3 giường bệnh/10 nghìn dân, giúp người dân có khả năng tiếp cận với các loại hình dịch vụ khám chữa bệnh. Không chỉ đáp ứng cơ bản về nhu cầu khám chữa bệnh, nhiều năm qua, ngành Y tế đã phát triển y tế chuyên sâu, ứng dụng kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị.
Các bệnh viện đã đầu tư, ứng dụng các trang, thiết bị, kỹ thuật công nghệ cao như: phẫu thuật nội soi, ứng dụng công nghệ laser vào y học, ứng dụng robot trong phẫu thuật đến các kỹ thuật vi phẫu tạo hình, ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật tim mạch can thiệp như: chụp buồng tim, điều trị loạn nhịp tim… Đặc biệt, khi các đơn vị y tế như BV. Việt Đức hay BV. Chợ Rẫy đã bước đầu hoàn tất quy trình kỹ thuật trong ghép tạng từ người cho chết não và tim ngừng đập, việc làm này đã “chia sẻ quyền được sống” mang ý nghĩa nhân văn, tốt đẹp của dân tộc ta, kéo theo rất nhiều hy vọng cho bệnh nhân suy tạng cần ghép quay trở lại cuộc sống bình thường; đồng thời cùng với đó, chuyên môn của các chuyên khoa từ hồi sức cấp cứu đến phẫu thuật ghép tạng, nội khoa theo dõi sau ghép… đều được nâng cao.
Việc phát triển tiến bộ khoa học - kỹ thuật cao trong khám chữa bệnh giúp người dân trong nước ngày càng tiếp cận và áp dụng kỹ thuật cao ngang tầm các nước phát triển trong khu vực. Tại nhiều bệnh viện, kỹ thuật ghép gan, ghép thận, phẫu thuật tim hở, can thiệp mạch kín, thụ tinh ống nghiệm, ghép tế bào gốc đã trở thành kỹ thuật thường quy. Nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, các thầy thuốc Việt Nam đã đóng vai trò người thầy, chuyển giao kỹ thuật cho các nước trên thế giới.
Không chỉ có các bệnh viện tuyến trên, thông qua đề án bệnh viện vệ tinh, 4 năm qua, nhiều bệnh viện tuyến dưới đã được chuyển giao kỹ thuật cao, nâng cao uy tín và trình độ chuyên môn, thu hút người bệnh tại địa phương và góp phần giảm tải. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản nhi, nhiều bệnh viện tuyến dưới đã khám và điều trị cho 98% số người bệnh thuộc chuyên khoa phụ sản và nhi khoa thay vì phải chuyển tuyến trên. Nhiều kỹ thuật lâm sàng mới được triển khai như phẫu thuật nội soi một lỗ, phẫu thuật nội soi lồng ngực trẻ dưới 12 tháng, lọc máu liên tục trẻ sơ sinh, thở máy HFO... hay các kỹ thuật cận lâm sàng như xét nghiệm Real-time PCR chẩn đoán các chủng virút, vi khuẩn, xét nghiệm sàng lọc sơ sinh, sàng lọc ung thư sớm, sàng lọc trước sinh, xét nghiệm tiền sản giật... Một số chuyên khoa giảm mạnh như Tim mạch (giảm 98,5%); Ung thư (giảm 97%); Ngoại khoa (giảm 98,5%); Sản khoa (giảm 99%); Nhi khoa (giảm 73%).
Hơn thế nữa, ngày 25/5/2017, Bộ Y tế đã ký quyết định số 2099/QĐ-BYT ban hành danh mục đợt 6 các dịch vụ kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh tương đương về kỹ thuật và chi phí thực hiện. Như vậy tính đến nay, sau 6 đợt, Bộ Y tế đã ban hành danh mục gồm 8.984 kỹ thuật tương đương thuộc 28 chuyên khoa, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thanh toán chi phí khám chữa bệnh, đảm bảo quyền lợi cho người bệnh có thẻ Bảo hiểm Y tế. Trong đó, nhiều kỹ thuật cao đã được đưa vào danh mục như phẫu thuật ứng dụng tế bào gốc điều trị các bệnh lý thần kinh tủy sống; chụp cộng hưởng từ hạt nhân; chụp động mạch vành; siêu âm màu; chụp động mạch não; thông động mạch vành; phẫu thuật bằng phương pháp nội soi…
Bộ Y tế đã xây dựng, hoàn thiện hàng loạt các giải pháp nâng cao chất lượng bệnh viện. Bộ Y tế đã ban hành Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện với 83 tiêu chí cụ thể nhằm thúc đẩy các bệnh viện có các bước cải tiến mạnh mẽ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, hướng tới chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế như JCI (Hoa Kỳ).
Ngành Y tế Việt Nam cùng hòa trong nhận thức toàn cầu rằng càng tăng cường khám chữa bệnh kỹ thuật cao là chìa khóa chăm sóc sức khỏe người dân tốt hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống và có thể ngăn ngừa nhiều trường hợp tử vong. Qua đó hướng tới tôn trọng các quyền và phẩm giá của từng người bệnh. Chất lượng sống của người dân ngày càng được cải thiện, nâng cao chăm sóc sức khỏe toàn dân, góp phần tăng tuổi thọ bình quân, giảm tỉ lệ tử vong tương đương với các nước có thu nhập cao hơn Việt Nam nhiều lần. Cũng trong mối quan hệ đó, những nỗ lực cải thiện kinh nghiệm của bệnh nhân cũng dẫn đến sự hài lòng của nhân viên hoạt động trong lĩnh vực y tế, giảm tỉ lệ chảy máu chất xám. Muốn nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, giúp người bệnh và thân nhân trải nghiệm những phương pháp điều trị thoải mái hơn đòi hỏi các bệnh viện phải cải tiến quy trình làm việc, qua đó cho phép bác sĩ và nhân viên y tế hoạt động hiệu quả hơn.
TP.HCM KHẲNG ĐỊNH VỊ TRÍ TRÊN BẢN ĐỒ Y KHOA THẾ GIỚI
GS.TS.BS. Nguyễn Tấn Bỉnh- Giám đốc Sở Y tế TP.HCM
Việc ứng dụng kỹ thuật cao trong điều trị tất cả đều hướng tới chất lượng người bệnh với 5 mục tiêu: người bệnh an toàn hơn, hiệu quả điều trị tốt hơn, thời gian chờ của người bệnh được rút ngắn hơn, chi phí điều trị hợp lý hơn, và người bệnh hài lòng hơn.
TP.HCM hiện có 114 bệnh viện với 38.163 giường bệnh thực kê, đạt tỉ lệ 46,09 giường bệnh/1 vạn dân (dự ước dân số thường trú của thành phố là 8,28 triệu - số liệu của Cục Thống kê).
Ngành Y tế TP.HCM đã ban hành kế hoạch định hướng phát triển các kỹ thuật chuyên sâu cho các bệnh viện đầu ngành của thành phố như: phẫu thuật Robot của BV. Bình Dân; kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đạt chuẩn quốc tế của BV. Từ Dũ, Hùng Vương; kỹ thuật chuyên sâu về tim mạch, ung bướu của BV. UB, BV. Nhân Dân 115, Nhân Dân Gia Định; kỹ thuật ghép tế bào gốc trong điều trị ung thư máu và xây dựng ngân hàng máu đạt chuẩn GMP châu Âu của BV. Huyết học - Truyền máu; phẫu thuật tim bẩm sinh của BV. Nhi đồng 1, Nhi đồng 2… Hầu hết các kỹ thuật chuyên sâu có chi phí lớn đều được bảo hiểm xã hội chi trả theo quy định nếu người bệnh có tham gia bảo hiểm y tế.
Người dân tất nhiên được hưởng lợi khi đến các bệnh viện để được điều trị, thay vì phải đi nước ngoài, tốn kém chi phí. Đa phần trong các kỹ thật cao, bảo hiểm y tế cũng đã chi trả một phần, giúp người bệnh giảm nhẹ chi phí điều trị. Cũng cần lưu ý rằng, chi phí điều trị y tế tại TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung đều thấp hơn rất nhiều so với chi phí điều trị cùng kỹ thuật đó tại các nước tiên tiến về kinh tế.
Các lĩnh vực chuyên khoa mũi nhọn mà ngành y tế thành phố định hướng bao gồm:
Các kỹ thuật chuyên sâu Ngoại khoa (Chấn thương chỉnh hình: công nghệ robot định vị chính xác trong điều trị phẫu thuật bệnh lý cột sống và bệnh lý đĩa đệm; lồng ngực - mạch máu - Tim mạch: triển khai phẫu thuật kết hợp can thiệp mạch di động đồng thì (kỹ thuật Hybrid) trong phẫu thuật các bệnh lý mạch máu lớn và nặng; ghép tạng: hoàn thiện và nâng cao các kỹ thuật đã được thực hiện thường quy như: ghép thận, ghép gan từ người chết não, cắt gan; thần kinh: phát triển phẫu thuật nội soi thần kinh điều trị bệnh lý tuyến yên, u sọ hầu, phẫu thuật ít xâm lấn...).
Các kỹ thuật chuyên sâu Nội khoa (kỹ thuật chuyên sâu trong chuyên khoa hồi sức cấp cứu, hồi sức tích cực chống độc; kỹ thuật chuyên sâu về công nghệ sinh học, sinh học phân tử, công nghệ gen, công nghệ tế bào gốc ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị; kỹ thuật chuyên sâu chụp mạch máu DSA và can thiệp nội mạch trong chẩn đoán và điều trị, tim mạch và mạch máu ngoài tim
Các kỹ thuật chuyên sâu Sản phụ khoa triển khai hoàn thiện các kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; triển khai kỹ thuật can thiệp bào thai: can thiệp truyền máu bào thai; thành lập ngân hàng sữa mẹ.
Các kỹ thuật chuyên sâu Nhi khoa, lĩnh vực sơ sinh, các kỹ thuật chuyên sâu Y học dân tộc và phục hồi chức năng, mắt, răng hàm mặt, tai mũi họng, ung bướu... cũng đều có chiến lược đầu tư phát triển chuyên sâu để tất cả phải trở thành các bệnh viện tuyến cuối của ngành Y tế TP.HCM và của cả khu vực phía Nam. Đặc biệt ngành Y tế TP.HCM đang đầu tư xây dựng Trung tâm Y tế kỹ thuật cao kết hợp mô hình đào tạo viện - trường để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học để phát triển thành Trung tâm Y tế của khu vực Đông Nam Á sau năm 2020.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, nếu tất cả đều dựa vào Bảo hiểm y tế với mức đóng như hiện nay, nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm có thể xảy ra. Tôi nghĩ rằng, có thể có nhiều giải pháp cho các tình huống cần ứng dụng kỹ thuật cao khi điều trị. Bảo hiểm y tế có thể chi trả một phần như hiện nay, hoặc nếu ai muốn sau này có thể cần dùng đến kỹ thuật cao trong điều trị, có thể lựa chọn gói Bảo hiểm y tế cao cấp hơn với chi phí đóng cao hơn, phần được hưởng lợi ích chi trả nhiều hơn ngay cả những kỹ thuật cao, tốn kém nhiều tiền. Bên cạnh đó, đối với người nghèo nhưng cần điều trị kỹ thuật cao, có thể huy động nguồn lực xã hội tham gia thông qua các quỹ từ thiện, như mô hình Viện Tim đã làm lâu nay.
PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT CAO, MỞ RỘNG GIỚI HẠN CHẨN ĐOÁN ĐIỀU TRỊ
PGS.TS.BS. Nguyễn Trường Sơn- Giám đốc BV. Chợ Rẫy
Trong năm 2017, BV. Chợ Rẫy đã gặt hái rất nhiều thành tựu như 8 kỷ lục Việt Nam trong lĩnh vực ghép tạng, ứng dụng hệ thống phẫu thuật robot, đạt các chứng nhận quốc tế trong quản lý phòng xét nghiệm… Chợ Rẫy chú trọng ứng dụng kỹ thuật cao cũng như chuyên sâu nhằm tăng cường chất lượng bệnh viện, nâng cao công tác khám chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Mặc dù chỉ là một phần trong bảng đánh giá, nhưng phát triển kỹ thuật mới hay kỹ thuật cao, chuyên sâu rất quan trọng, nằm trong cột điểm tương đối cao khi đánh giá chất lượng bệnh viện. Do đó, nếu bệnh viện nào không chú trọng việc phát triển kỹ thuật mới hoặc đưa vào danh mục bệnh viện những kỹ thuật chẩn đoán hay điều trị mới, chất lượng bệnh viện sẽ không đạt điểm tối ưu.
Ghép tạng và ứng dụng robot
Trong một năm qua, BV. Chợ Rẫy đã rất quyết liệt trong việc ứng dụng hàng loạt các kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị bệnh, đặc biệt là những kỷ lục ghi nhận trong lĩnh vực ghép tạng…
Đó là những ghi nhận đóng góp của BV. Chợ Rẫy trong công tác khám chữa bệnh, với những số liệu khiến cho chúng tôi rất tự hào như bệnh viện thực hiện ca phẫu thuật ghép thận từ người hiến thận chết não đầu tiên tại Việt Nam; lần đầu tiên ghép chéo; tổ chức và thực hiện quy trình ghép thận từ người hiến tim ngừng đập đầu tiên tại Việt Nam; nhiều ca ghép thận nhất Việt Nam…
Việc khuyến khích ghép, tăng số lượng ghép là một định hướng của BV. Chợ Rẫy trong năm mới. Hiện nay, BV. Chợ Rẫy ghép được 2 ca/tuần, và dự tính trong năm mới sẽ tăng thêm 1 ca mỗi tuần, vị chi là tăng thêm 30 - 50 trường hợp bệnh nhân được ghép tạng.
BV. Chợ Rẫy là một trong hai bệnh viện trên địa bàn TP.HCM đã đưa vào ứng dụng hệ thống phẫu thuật robot. Trong năm 2018, BV. Chợ Rẫy sẽ tiếp tục ứng dụng phẫu thuật robot vào nhiều chuyên khoa. Trong năm 2017, hệ thống phẫu thuật robot đã được triển khai cho 3 chuyên khoa, bao gồm: ngoại tiết niệu, ngoại tiêu hóa và ngoại gan - mật - tụy. Bệnh viện đã và đang triển khai phẫu thuật nội soi bằng robot trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt, ung thư thận, ung thư bàng quang, ung thư dạ dày, đại trực tràng, ung thư phổi, u trung thất, cắt nang ống mật chủ, tạo hình khúc nối bể thận - niệu quản, ung thư gan.
Trong năm 2018, bệnh viện sẽ mở rộng thêm ít nhất là 2 chuyên khoa nữa là ngoại lồng ngực và phẫu thuật tim.
Kỹ thuật mới chuyên sâu điều trị ung thư
Vấn đề ung thư hiện giờ là mối quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước trong công tác đầu tư y tế. Lãnh đạo của Bộ Y tế đã hoạch định chiến lược phòng, chống và điều trị bệnh ung thư Việt Nam giai đoạn 2020 đến năm 2025, trong đó xây dựng Hệ thống Trung tâm Ung thư rất hiện đại, và Trung tâm Ung bướu của BV. Chợ Rẫy cũng thuộc chiến lược phát triển đó, nằm trong hệ thống chẩn đoán và điều trị ung thư tại Việt Nam.
Trung tâm Ung bướu của BV. Chợ Rẫy có rất nhiều ưu thế như đã tiếp nhận giai đoạn I và chuẩn bị tiếp nhận giai đoạn II dự án ODA của Áo với tổng số tiền là 40 triệu euro. Bệnh viện đã trang bị những hệ thống rất hiện đại để chẩn đoán và điều trị như trung tâm sinh học phân tử để chẩn đoán những đột biến gen của người bệnh ung thư; các hệ thống chẩn đoán hình ảnh mới như hệ thống cộng hưởng từ 3 Tesla, hệ thống kỹ thuật số xóa nền DSA, và đặc biệt là hệ thống xạ trị hiện đại tiên tiến nhất. Đây cũng là những điểm mà trong năm 2018 chắc chắn sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho bệnh nhân ung thư khi áp dụng được nhiều kỹ thuật xạ trị. Ngoài ra, trung tâm còn có hệ thống xét nghiệm tự động hóa mới vừa đạt được tiêu chuẩn six sigma của quốc tế.
Đồng thời, cùng với những đầu tư trang thiết bị, chúng tôi xây dựng mô hình làm việc theo nhóm để chúng ta có thể tận dụng tất cả chuyên gia từ nội khoa, ung thư học, phẫu thuật viên, vật lý trị liệu, dinh dưỡng… để lấy người bệnh làm trung tâm, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong phục vụ người bệnh.
Kỹ thuật mới - chi phí điều trị cao
Đó là mâu thuẫn cần giải quyết. Truyền thống của BV. Chợ Rẫy là cố gắng phát triển kỹ thuật mới cho những người có điều kiện. Và chính từ những bệnh nhân có điều kiện được khám chữa bệnh bằng kỹ thuật cao như vậy, sau này, khi mà bảo hiểm y tế, khi những người nghèo tiếp cận với kỹ thuật đó, họ chắc chắn sẽ được hưởng lợi từ những kỹ thuật cao mà bệnh viện đã triển khai trước đó, còn hơn là chúng ta không bao giờ đem kỹ thuật mới trên thế giới về ứng dụng trong công tác khám chữa bệnh cho người dân Việt Nam, góp phần thu hẹp khoảng cách y tế giữa các nước có nền kinh tế tiên tiến trên thế giới và Việt Nam.
Chính vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong những trường hợp này, rất cần sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế để có thể xây dựng những danh mục mà người bệnh sẽ được chi trả bởi vì những kỹ thuật mới này đem lại những lợi ích rất lớn cho người bệnh. n
TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG ĐIỀU TRỊ VÌ AN TOÀN NGƯỜI BÊNH
PGS.TS.BS NGUYỄN HOÀNG BẮC
Giám đốc BV. Đại học Y Dược TP.HCM
BV. Đại học Y Dược TP.HCM (BV. ĐHYD) luôn tiên phong, tiếp cận nhanh và ứng dụng các thành tựu y học tiên tiến trên thế giới trong việc khám, chữa bệnh thông qua việc hợp tác với các trường đại học và trung tâm y tế lớn của các nước, đưa các bác sĩ, điều dưỡng ra nước ngoài học tập.
Nền tảng đầu tiên của sự phát triển bền vững ở BV. ĐHYD chính là nguồn nhân lực. Đội ngũ cán bộ của bệnh viện với số lượng hơn 3.000 thầy thuốc và nhân viên, trong đó có gần 100 giáo sư, phó giáo sư; 756 bác sĩ với trình độ sau đại học như tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa II, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa I, là những người thầy thuốc - thầy giáo không chỉ giỏi về lý thuyết mà còn giàu kinh nghiệm trong thực hành.
Thứ hai, bệnh viện định hướng hoạt động, tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của mình theo mục tiêu đem đến dịch vụ y tế chất lượng và an toàn cho người bệnh. Sự gắn kết nhuần nhuyễn giữa điều trị kỹ thuật cao - đào tạo - nghiên cứu khoa học, chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy chất lượng điều trị và dịch vụ phát triển.
Thứ ba, bệnh viện chú trọng xây dựng văn hóa chất lượng Bệnh viện theo tinh thần “phụng sự người bệnh”.
Thứ tư, bệnh viện xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, đúng chuẩn thiết kế bệnh viện quốc tế và thường xuyên đầu tư trang thiết bị mới nhất, tiên tiến nhất nhằm đáp ứng đầy đủ mọi hoạt động chuyên môn.
Thứ năm, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống khám, chữa bệnh và quản lý bệnh viện được xem một bước tiến quan trọng, mang tính đột phá của BV. ĐHYD.
Bệnh viện luôn tiên phong, tiếp cận nhanh và ứng dụng các thành tựu y học tiên tiến trên thế giới trong việc khám, chữa bệnh thông qua việc hợp tác với các trường đại học và trung tâm y tế lớn của các nước, đưa các bác sĩ, điều dưỡng ra nước ngoài học tập. Tổ chức nhiều hội thảo, lớp huấn luyện chuyển giao công nghệ của các chuyên gia nước ngoài tại bệnh viện. Bệnh viện từng bước tiến tới chuẩn quốc tế trong mọi hoạt động chuyên môn và chăm sóc người bệnh. Các trung tâm, khoa, đơn vị của bệnh viện không những phát triển đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mà còn tập trung theo hướng chuyên môn sâu. Đồng thời các chuyên khoa của bệnh viện tăng cường hội chẩn để chẩn đoán và đưa ra hướng điều trị cho từng loại bệnh, từng người bệnh. Đây là mô hình điều trị đa mô thức mà bệnh viện đang hướng đến, người bệnh sẽ được chẩn đoán toàn diện và điều trị triệt để nhất.
Bệnh viện phấn đấu nâng cao chất lượng chuyên môn và chất lượng dịch vụ, đáp ứng mong đợi của người dân trong và ngoài nước. Là một bệnh viện đa khoa nên BV. ĐHYD cần phát triển đầy đủ các khoa, chuyên khoa trong đó có những chuyên khoa như: sàn chậu học, dị ứng-miễn dịch lâm sàng, đơn vị chẩn đoán trước sinh, đơn vị đột quỵ... Trong thời gian tới, bệnh viện sẽ triển khai các chuyên khoa mới, các kỹ thuật y học tiên tiến, phức tạp khác như lĩnh vực ghép tạng, ứng dụng tế bào gốc, chẩn đoán gen và di truyền, đẩy mạnh các kỹ thuật ít xâm lấn để giảm thiểu tổn thương cho người bệnh.
Bệnh viện phát triển theo hướng điều trị đa mô thức, tập trung nguồn lực, tăng tính phối hợp bằng cách thành lập các trung tâm chuyên sâu đối với từng lĩnh vực như Trung tâm phẫu thuật nội soi, Trung tâm tim mạch, Trung tâm thăm dò chức năng hô hấp… và sắp tới đây là Trung tâm thần kinh và các trung tâm khác nữa. Các trung tâm này phối hợp với nhau để cùng điều trị trên một người bệnh, đem đến phương pháp điều trị kết hợp nhiều chuyên ngành, giữa cận lâm sàng và lâm sàng, giữa nội khoa và ngoại khoa, cùng với các kỹ thuật can thiệp nội mạch và ít xâm lấn. Vấn đề quan trọng nhất là nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị cho từng loại bệnh, cho từng người bệnh, chú trọng giáo dục sức khỏe cho cộng đồng giúp ngăn ngừa bệnh, phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh, từ đó dẫn đến việc điều trị và phục hồi hiệu quả hơn.
Một mục tiêu nữa mà bệnh viện muốn vươn tới là sẽ trở thành môi trường đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, bên cạnh việc tập trung xây dựng mô hình quản lý bệnh viện hiện đại.
Chăm sóc sức khỏe con người: cần kỹ thuật điều trị tốt nhất, tối tân!
TS.BS. Trần Vĩnh Hưng- Giám đốc BV. Bình Dân
BV. Bình Dân là bệnh viện đào tạo cho các chuyên khoa, nghiên cứu khoa học, càng đòi hỏi phải có những thiết bị y tế kỹ thuật cao và chuyên sâu.
Tại sao BV. Bình Dân dám đầu tư trang thiết bị hiện đại, tiên tiến nhất? Đầu tiên, bệnh viện chúng tôi có một đội ngũ bao gồm các giáo sư đầu ngành, bác sĩ tay nghề giỏi, được người dân tin mến. BV. Bình Dân là bệnh viện đào tạo cho các chuyên khoa, nghiên cứu khoa học, càng đòi hỏi phải có những thiết bị y tế kỹ thuật cao và chuyên sâu. Bên cạnh đó, thời gian gần đây, lượng người ra nước ngoài chữa bệnh cũng là chuyện chẳng đặng đừng, nếu cơ sở y tế ở Việt Nam làm tốt, bệnh nhân tin tưởng được thì thật sự chẳng ai muốn phải vất vả đi xa. Tất cả đó là “nguồn cảm hứng” thúc đẩy bệnh viện lúc nào cũng nhắm tới đi vào chuyên sâu, tăng cường kỹ thuật khám chữa bệnh đỉnh cao.
Chính vì vậy, chúng tôi mới đầu tư những kỹ thuật hàng đầu hiện nay như hệ thống phẫu thuật có robot hỗ trợ. Đó là điểm nhấn của bệnh viện trong năm qua. Trong năm đầu tiên, bệnh viện phẫu thuật có hỗ trợ robot cho 222 trường hợp (trong đó 62 trường hợp miễn phí) ở 14 loại bệnh, tập trung nhiều nhất là ung thư tuyến tiền liệt, ung thư trực tràng và ung thư bàng quang. Hiện có 16 kíp thực hiện phẫu thuật robot đã được đào tạo ở nước ngoài và cấp bằng quốc tế...
Để có thể vận hành một hệ thống phẫu thuật với robot, bệnh viện phải có một sự đầu tư cả về thời gian, nhân lực và vật lực. Tất cả chuyên khoa khác cũng phải phát triển song hành, ví dụ như chuyên ngành nội soi niệu.
Hiện nay, bệnh viện đều ứng dụng ống nội soi mềm, với những ống soi có kích thước tinh vi, giảm thiểu các tổn thương cho cơ quan bên trong cơ thể, không gây đau hoặc khó chịu cho bệnh nhân, chẩn đoán được tất cả ngóc ngách, đặc biệt là những điểm mù mà trước đây ống nội soi cứng có thể gây ra sang chấn, chẩn đoán hạn chế. Qua đó, giúp các chuyên gia y tế có thể chẩn đoán sớm giai đoạn bệnh lý, phát hiện kịp thời các vùng tăng sinh bất thường, nhuộm màu huỳnh quang để chẩn đoán chính xác có phải ung thư hay không. Điều đó có ý nghĩa vô cùng, chứ không phải đơn thuần ngành y tế nói chung, BV. Bình Dân nói riêng, đầu tư các hệ thống phòng mổ kỹ thuật cao để mổ cho bệnh nhân ở những giai đoạn bệnh trễ. Từ chẩn đoán sớm, chúng tôi mới có thể chuyển bệnh nhân sang phẫu thuật, điều trị sớm, trúng đích hiệu quả và an toàn.
Hơn thế nữa, nhiệm vụ của một bệnh viện tuyến cuối ngoại khoa mà không đầu tư thì chúng tôi không hoàn thành trách nhiệm của mình. Niềm tự hào đó, chúng tôi đã gìn giữ từ rất nhiều thế hệ, như GS. Phạm Biểu Tâm (1954), GS. Văn Tần… bao nhiêu thế hệ đầu ngành đã học ở đây, trưởng thành ở đây và tỏa đi các nơi. Vì lẽ đó, bệnh viện không ngừng đầu tư các kỹ thuật cao, chuyên sâu hơn nữa. Vấn đề xét nghiệm cũng thế. Trong năm 2018, khoa Nam học sẽ tiếp nhận Hệ thống Giải trình tự Gene, giúp các bác sĩ đi vào tận gốc vấn đề bệnh tật. Nhiều bệnh lý có thể do stress tâm lý, chế độ dinh dưỡng, ô nhiễm… Đó chỉ là phần ngọn, nhiều yếu tố bên ngoài còn tác động đến nội sinh bên trong, nên chúng ta cần phải chẩn đoán tận gốc căn nguyên, phát hiện đến cùng những tổn thương gen để điều trị triệt để. Thậm chí dựa vào phân tích, giải trình tự gen, chúng ta còn có thể tiên đoán những trường hợp có nguy cơ cao mắc ung thư để điều trị dự phòng.
Đặc biệt, BV. Bình Dân chú trọng phát triển chuyên khoa sâu, điển hình như Đơn vị Niệu đạo bao gồm một nhóm bác sĩ chuyên trách phẫu thuật niệu đạo. Ở các tỉnh, khi bệnh nhân bị chấn thương do té kiểu yên ngựa, chủ yếu là xử trí cấp cứu rồi mới chuyển về BV. Bình Dân. Theo các giáo sư đầu ngành của Mỹ, đây là đơn vị đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Tới đây, nội soi niệu, bướu bàng quang, niệu nữ - bàng quang thần kinh, suy sinh dục nữ, tuyến tiền liệt, đơn vị hậu môn - trực tràng, sỏi… từ khâu chẩn đoán đến điều trị sẽ khép kín. Bệnh nhân được khám và hiểu rõ mình bị bệnh gì. Không có lĩnh vực nào là không hay cả, quan trọng là bác sĩ chọn và được chọn để làm gì.