U máu thường là bẩm sinh, do tăng sinh và giãn ra của các mạch máu (động mạch, tĩnh mạch, mao mạch), nhưng thường là mao mạch, những mạch này được nối liền nhau bằng một số lượng biến đổi của tổ chức liên kết. Cũng có khi u máu được cấu tạo bởi một tổ chức hang thực sự, giống như tổ chức của cơ quan cương (érectile).
Nguyên nhân gây u máu
Có nhiều giả định về nguyên nhân gây u máu:
- Yếu tố gia đình: Nguy cơ 50% u máu ở bố hoặc mẹ đã thoái triển, nhưng u máu ở trẻ có thể tiến triển nặng hơn.
- Rối loạn hormone.
- Rối loạn miễn dịch.
- Có các bất thường về mạch máu.
- Do tác động của hóa chất hay các chất độc hại khác.
- Trong quá trình mang thai, người mẹ bị nhiễm khuẩn hay nhiễm virus.
- Sau khi bị chấn thương.
Biểu hiện u máu và phân loại
Có nhiều loại u máu, nhưng đều có chung một số triệu chứng lâm sàng như:
- Khối u màu đỏ hay màu tím, không đau.
- Nổi gồ trên da hay niêm mạc. Nếu ta bóp hay ấn vào u thì u xẹp, buông tay ra u lại phồng trở lại.
- Nếu va chạm, xây xát có thể gây chảy máu, bội nhiễm vi khuẩn và làm chảy máu nhiều gây nguy hiểm.
Một số loại u máu thường gặp
- U máu phẳng: Chiếm tỉ lệ khoảng 50%, là những bớt đỏ trên da (bớt màu rượu vang – Portwine stains), đa số là bẩm sinh. Các vết bớt thường có màu nâu xám, vàng, xanh, hồng hay đỏ. Chúng được tạo thành do sự kết tụ lại của các mao mạch.
- U máu gồ: Gồ trên da từng chùm như chùm dâu, có màu đỏ của máu, bờ rõ, hình thể u giống như "một quả dâu lớn đặt trên da", thường khu trú ở mặt và trên thân mình.
Một số biểu hiện bên ngoài của chứng u máu
- Phình mạch rối: Có thể coi như quá trình phát triển của một u máu gồ tự phát hoặc dưới ảnh hưởng của một sang chấn hoặc do nội tiết (có thai xúc động). Có khi lại được coi như một thể trung gian giữa u máu và phồng động – tĩnh mạch.
Hình thái lâm sàng là một u gồ, thường to bằng quả cau hay quả quýt, da trên u màu hồng thẫm, nhăn nheo, mỏng, đôi khi có tĩnh mạch nổi rõ, nhìn thấy rõ nhịp đập, rất dễ chảy máu gây nguy hiểm vì khó cầm máu. U làm biến dạng mặt và ảnh hưởng tới chức năng, tùy theo vị trí ở gần mặt mũi, môi hay tai... anh hưởng sâu xa có thể tới tim. Về tổ chức học, giống như u máu thể củ, thường là phối hợp mao mạch với hang.
- U máu dưới da: Là một khối mềm, ở sâu bên dưới và đội da u lên, thường tạo thành các hang máu, chủ yếu do tĩnh mạch trở thành xơ, hang. Sự ứ đọng máu lâu ngày tạo thành các hạt sỏi trắng. U hơi chắc, thấy rõ các hạt sạn cứng. U mạch củ có thể phối hợp với một u mạch dưới da, làm thành một u máu hỗn hợp.
Những khối u máu ngoài da chúng ta có thể quan sát và dễ dàng chẩn đoán. Tuy nhiên, với các khối u mạch máu ở họng, hạ họng nếu bị bội nhiễm bệnh nhân có thể nuốt đau, khó nuốt. Khàn tiếng kéo dài, khó thở khi hít vào và ho nhiều nếu khối u mạch ở thanh quản, đôi khi ho ra máu đỏ tươi, hơi thở hôi là tùy theo bản chất khối u. Soi hạ họng thanh quản thấy khối u sùi như chùm nho hoặc khối tròn nhẵn, có màu đỏ hay tím sẫm.
- U máu trong xương hàm: Tương đối hiếm gặp nhưng là loại u máu nguy hiểm nhất, có thể gây tử vong. Thường u từ ngoài tiến vào, đó là u máu từ niêm mạc miệng hoặc lợi phát triển và phá hủy dần dần xương hàm. Hiếm hơn u máu có thể từ trung tâm xương hàm phá hủy dần và biểu lộ ra ngoài lợi và răng…
Điều trị u máu như thế nào?
Điều trị u máu là một vấn đề rất tế nhị, phong phú và thường là khó khăn. Nó tùy thuộc ở từng bệnh nhân, từng khu trú, từng thể bệnh, tùy mục đích yêu cầu nhằm giải quyết thẩm mỹ, hay chức năng, hay cứu sống bệnh nhân lúc nguy hiểm. Do đó, không có một công thức nào được đưa ra để áp dụng chung, mà chỉ có thể nêu những khả năng giải quyết u máu, những chỉ định chung cần linh hoạt áp dụng cho từng trường hợp cụ thể.
U máu diễn biến có thể tự khỏi, ổn định, không phát triển thêm hoặc tiếp tục phát triển nhanh hoặc chậm, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, ảnh hưởng tới chức năng, thẩm mỹ hay không.
Tuỳ từng thể bệnh, u máu chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ như u máu phẳng; hoặc vừa ảnh hưởng tới thẩm mỹ và chức năng như u máu gồ, thể củ, thể sâu dưới da, niêm mạc; hoặc còn có thể nguy hiểm đến tính mạng vì chảy máu, nhiễm khuẩn như u máu trong xương, u máu thể gồ ở lưỡi gà, amidal, lưỡi; hoặc phình rối ở mắt, thái dương, tai...
Không phải u máu nào cũng cần được điều trị, vì nhiều lý do. Vì vậy, khi có biểu hiện u máu, người bệnh cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Tuyệt đối không tự điều trị để ảnh hưởng đến sức khỏe.