Từ thạch có sức hút sắt, bột sắt dính ở ngoài thì dựng đứng lên như lông, thường gọi “Hoạt từ thạch”. Nếu để lâu mất từ tính gọi là “từ thạch chết”. Loại đen màu sắt, mặt bẻ mịn, bóng, hút được sắt là tốt.
Chế biến
Từ thạch: bỏ tạp chất, nghiền nhỏ, qua rây. Đoàn từ thạch: chải sạch, đập vụn, cho vào nồi đất, đặt lên lò than hồng (bếp không khói) nung đỏ, lấy ra đổ ngay vào chậu giấm, tẩm, đập vụn, lại nung và tẩm lần nữa, lấy ra phơi khô, tán thành bột thô. 50kg từ thạch cần 25-30kg giấm (cả hai lần).
Về thành phần hóa học, từ thạch có oxyt sắt, chủ yếu là Fe304, ngoài ra có Fe203 và Mn0; có từ tính mạnh (magnetit), có tác dụng trấn tĩnh an thần, chống thiếu máu.
Theo Đông y, từ thạch vị cay mặn, tính hơi hàn; vào kinh Can, Phế và Thận. Tác dụng trấn kinh an thần, tiềm dương, nạp khí, định suyễn. Trị đau đầu, hoa mắt chóng mặt, ù tai điếc tai (huyễn vững) mất ngủ, động kinh co giật, hen suyễn, hồi hộp đau tức vùng ngực, tim đập nhanh, phong thấp. Liều dùng 10-30g mỗi ngày; bằng cách nấu hầm, ngâm ướp.
Từ thạch trị đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, điếc tai (huyễn vững), mất ngủ, động kinh co giật, hen suyễn,...
Một số bài thuốc có từ thạch
Bình can, tiềm dương, trấn tâm, an thần: Bài Từ Chu hoàn: từ thạch 125g, chu sa 63g, thần khúc 250g. Tất cả nghiền chung thành bột, luyện với mật ong làm hoàn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g, uống với nước đun sôi. Trị các chứng bệnh do phần dương trong can bốc lên sinh chóng mặt, sây sẩm, nhức đầu, tai ù, giảm thị lực nhìn không rõ; bệnh tâm thần bất an, tim hồi hộp, mất ngủ, động kinh.
Nạp khí, bình suyễn: Viên Từ thạch Lục vị: thục địa 32g, sơn thù 16g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, phục linh 12g, trạch tả 10g, từ thạch 12g. Tất cả tán bột mịn, luyện với mật làm hoàn. Ngày uống 2-3 lần; mỗi lần 10g. Trị các chứng thận hư gây suyễn.
Một số món ăn thuốc có từ thạch
Canh thận từ thạch: từ thạch 50g, thận lợn 1 đôi. Từ thạch đập vụn mài mịn, cho vào nước khuấy, loại bỏ nước dịch màu đỏ, gạn lấy phần cặn lắng, dùng vải bông gói lại, đun nấu lấy nước, bỏ cấn cặn. Thận lợn bỏ màng mỡ thái lát. Đem nước từ thạch nấu với thận lợn, thêm gia vị gừng, hành, bột tiêu, đậu phụ hoặc đậu hạt trắng, nấu thành canh súp; ăn khi đói. Dùng tốt cho người bị ù tai, điếc tai, động kinh co giật.
Rượu từ thạch: xương bồ (ngâm nước gạo 24 giờ, thái lát, phơi sấy khô) 240g, mộc thông 240g, từ thạch 15g. Cả ba loại dược liệu dùng vải xô vuông gói lại, ngâm trong vò 10 lít rượu, để chỗ mát 7 ngày, sau đó để ra nắng 3 ngày. Mỗi lần uống 30ml, ngày uống 2 lần. Dùng tốt cho người bị ù tai, điếc tai, động kinh co giật, hen uyễn.
Từ thạch tửu: từ thạch 50g, rượu 1.000ml. Từ thạch cho vào bình, đổ rượu vào ngâm trong 14 ngày. Mỗi lần uống 20ml, ngày 2 lần. Dùng tốt cho nam giới bị liệt dương.
Cháo từ thạch thận lợn: từ thạch 60g, thận lợn 1 quả, gạo tẻ 100g. Từ thạch đập nghiền vụn, nấu gạn lấy nước trong, bỏ váng cặn; thận lợn làm sạch thái lát. Tất cả đem nấu cháo với nước từ thạch. Món này thích hợp cho người hay hồi hộp, tim đập mạnh, mất ngủ.
Từ thạch thủy: từ thạch mài với nước sạch, loại bỏ váng bẩn, gạn lấy nước trong, đun sôi, lọc lại lần nữa cho uống. Dùng tốt cho trẻ bị động kinh, sốt cao kinh giật.
Kiêng kỵ: Người tỳ khí hư nhược cấm uống. Không dùng từ thạch liên tục dài ngày.