Đây là câu chuyện nghe kể (tác giả có chứng kiến một phần) về một nhân vật kỳ lạ, có thật ở miền Tây Nam Bộ, đó là ông đạo Dừa cùng với đạo hiếm có, do ông làm giáo chủ. Nguyễn Trường vừa đoạt giải Nhất cuộc thi truyện ngắn (2015-2017) do báo Văn Nghệ tổ chức. Một trong 3 truyện được trao giải - Vương quốc mộng mơ - cũng dựa vào sự tích đạo Dừa.
Ông đạo Dừa có tên cúng cơm là Nguyễn Thành Nam. Được học hành tử tế, ấy mà suốt từ thời trai trẻ đến trước 1975, khi đã 80 tuổi, ông chỉ loay hoay với cái đạo Dừa vớ vẩn, tạp nham của mình và luôn luôn nuôi khát vọng ảo tưởng làm vua. Ông tự lập ra đạo Dừa, có nghĩa là đạo Vừa Vừa (tầm tầm, phải chăng thôi), tự xưng là giáo chủ. Hài hước là chữ vừa vừa lại trùng âm với dừa dừa theo phát âm của người Nam Bộ, lại trùng với cây dừa trùng điệp ở quê ông. Ông có vẻ ngoài luộm thuộm, nhếch nhác do cố ý. Đạo Dừa có nhiều tín đồ, nhưng cũng không ít người chế nhạo, ngay cả một số tín đồ cũng coi thường ông, họ theo ông chỉ vì hám lợi.
Bìa cuốn tiểu thuyết Mộng đế vương của nhà văn Nguyễn Trường.
Có thể xếp Mộng đế vương vào số những tiểu thuyết lịch sử, kiểu phái sinh. Lạ và khác so với thông thường chăng, là tiểu thuyết này không viết về nhân vật có trong chính sử, mà đề cập một nhân vật tuy có thật nhưng riêng lẻ, lạ kỳ, chỉ là giáo chủ một nền đạo tự xưng ất ơ, chẳng đâu vào đâu.
Tiểu thuyết lịch sử hiện đại có nhiều loại nhưng không một loại nào có giá trị nghệ thuật lại chỉ thuật truyện quá khứ một cách đơn thuần. Nó phải vừa nói xưa để hiểu lại, hiểu thêm xưa, mà ở nhiều trường hợp, nói nay được tác giả và độc giả rất quan tâm. Mở đầu sách, tác giả đã có Đôi lời tâm sự: Tiểu thuyết nêu một hiện tượng lạ, tác giả phần nào lý giải về hiện tượng đó. Nhà văn muốn chuyển tải những tư tưởng, (...) gửi gắm đến người đọc bao điều còn lại hôm nay.
Ngay trong và đằng sau những chuyện hài hước, nhố nhăng là bao nỗi niềm về thế thái nhân tình. Xã hội Việt Nam hôm nay đã tiến bộ về nhiều mặt hơn hẳn ngày trước. Nhưng tại nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác, có vẻ như khi kinh tế tăng trưởng, văn minh đi lên thì văn hóa có chiều đi xuống, cái xấu, cái ác vẫn còn đe dọa người lương thiện. Ý thức phản biện xã hội mới đây mới có, nhưng vẫn còn yếu, lại chưa đồng đều ở mọi bộ phận xã hội. Tàn dư của nếp sống cũ, tư tưởng cũ vẫn còn ngự trị. Như trong Mộng đế vương, một số bộ phận dân cư dễ tin điều gàn dở hoặc lợi dụng cái dở, cái sai, cái bùng nhùng chưa rõ trắng đen, nhằm đục nước béo cò để kiếm lợi. Họ thấy hóa ra đi tu cũng là một nghề kiếm sống vừa dễ giàu có, vừa không phải đổ mồ hôi. Sự chánh quả đến ngay trong một kiếp nhãn tiền (85). Mất niềm tin thì hùa nhau theo đạo nọ đạo kia, pha tạp lẫn lộn mê tín dị đoan, Thánh, Thần, Phật, Chúa trở nên một mớ tạp nham tốt, xấu, thật giả. Còn nghi ngờ gì nữa khi giữa ban ngày, một vị hòa thượng đầu cạo trọc, mặc y nhà Phật già hóp má mà người ta đã biết danh phải cung kính, cúi đầu trước Nam thì ai chả tin chả nể (77). Dân cư Cồn Phụng hầu hết vì đạo Dừa thì ít mà vì lợi ích của bản thân họ là nhiều. Hầu hết dân theo đạo là người trốn lính (281). Dân tộc này vốn trung hiếu, bảo gì nghe nấy nhưng lại không bao giờ biết làm phản. Vua có sai trái, có làm càn, có ngu muội, dân cũng không hề than vãn, vua luôn luôn đúng, luôn luôn sáng suốt (21). Đấy là chuyện ngày trước ở miền Tây Nam Bộ. Trên mặt chữ, tiểu thuyết hoàn toàn không nói đến hôm nay. Nhưng là văn chương thì độc giả có thể liên hệ có chọn lọc. Độc giả cũng không thể khẳng định rằng tác giả không ám dụ giúp lan tỏa những nghĩ suy có ích cho sự tiến bộ của xã hội. Tôn kính bề trên, trọng danh, phấn đấu để có danh, để khẳng định năng lực của bản thân nhằm góp phần xây dựng sự nghiệp chung, là tâm lý, thái độ sống lành mạnh, nhưng hám danh, hám quyền chức đến mức phi thực tế, hão huyền, bệnh hoạn, để rồi không vẫn hoàn không, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an ninh, lại là mặt trái của đạo đức. Nam muốn làm vua (sự thật đã là vua), nhưng vẫn khiến người ta nghi hoặc về trình độ của ông. Đúng là làm vua phải có con mắt tinh đời mới nhìn ra ai là người trung thành, ai là kẻ phản bội. Nhìn ra được điều đó khó lắm thay, nó cần có trái tim nhân ái và cái đầu tỉnh táo, điều đó không dễ đối với bậc quân vương (295). Vua ngày xưa khác vua ngày nay (...). Bởi thế lòng dân cũng khác (236). Nguyễn Thành Nam nói với Dương Văn Minh: Các ông nếu muốn làm tốt hãy làm những gì thuận với lòng dân (276). Tầng lớp trung gian (vừa trung vừa gian) không phải bao giờ và ở đâu cũng làm đúng ý cấp trên và ý dân. (Dân gian đang có câu: Trên bảo dưới không nghe). Dân Cồn Phụng nghèo khổ, còn đám quan lại cứ mỗi ngày một giàu có. Tu theo đạo Dừa chỉ là cái cớ, cái vỏ bọc để họ giữ vững chiếc ghế của mình (182). Dân tại vương quốc Cồn Phụng buôn bán tấp nập, người ta độc quyền ra giá vận chuyển tàu đò. Hàng nghìn người biểu tình phản đối. Độc giả không thể không liên hệ đến tình trạng lợi ích nhóm, nạn tham nhũng hiện nay, tiền của dân của nước cứ chảy vào túi một số kẻ có quyền chức. Tiểu thuyết nhấn mạnh điều quen thuộc: Vua chỉ là ngọn cờ để tập trung lực lượng, trí tuệ của toàn dân. Người cố vấn, người tham mưu giúp việc phải tài giỏi, phải sáng suốt (92). Bà Nga, vợ Nam, cho chồng biết: Ông Lý Tể tướng có đến hàng tá vợ. Bà nào cũng dinh thự. Ông ta ăn mặc sang trọng, đi xe đời mới. Bà đau buồn than thở với chồng: Quan lại dưới trướng của ông đang đục khoét nhân dân. Dân đang oán đến tận trời xanh đấy. Những con chuột đục khoét toàn là những kẻ do ông dựng nên. Giặc nội xâm cận kề ông đó (263). Đấy là những dòng văn nói sát sạt. Mộng đế vương gợi ý góp phần giúp những người cai quản đất nước có thêm bài học kinh nghiệm. Biết quan Tể tướng lạm quyền, gây bè đảng, vơ vét tiền của của dân, Diệu Ứng thưa với giáo chủ: Cậu vẫn nói đất nước của chúng ta là đất nước của Phật, đất nước nhân ái, dân chủ, bình đẳng, mà nay dân sống nghẹt thở (...) cái đó bởi ai? (...) Cậu cai quản đất nước như ngày xưa thì đâu cần phải công an, cảnh sát nhiều đến thế, mà dân cũng chẳng nổi loạn (219). Rồi chính giáo chủ cũng phải gầm lên: Ta không ngờ vương quốc Cồn Phụng lại có ngày hôm nay. Vua mà không trị tội được bọn tham nhũng, bọn phản loạn thì có còn là vua không (253). Hóa ra trước đó ông đã suy đoán rồi: người nguy hiểm nhất xưa nay là người sẽ kế vị (220).
Rồi đến hoạt động tín ngưỡng, tại giờ phút ông đạo Dừa cầu nguyện ở đầu phía Nam cầu Hiền Lương, tác giả đã viết: Cái dại của bất cứ chính quyền nào là cấm đoán đạo (...). Tốt hơn hết là khuyến khích, giúp đõ họ trong những việc làm có ích, đồng thời ngăn chặn những việc làm có tính dị đoan, cũng như hoạt động phản quốc (196). Tín ngưỡng đi liền với niềm tin. Khủng hoảng niềm tin ở nơi này thì đặt niềm tin vào nơi khác. Niềm tin chính đáng, cao đẹp cần được hướng dẫn bởi trí tuệ sáng suốt. Ông đạo Dừa chân thành nhưng hoang tưởng. Tín đồ của ông, nếu là tin thật, thì cũng là đi theo bước chân mê lú lạc đường của giáo chủ mà thôi. Họ đã tưởng tượng ra ông Nam tỏa ra ánh hào quang. Đó chỉ là ảo giác của những người theo đạo muốn làm bề tôi của giáo chủ.
Hiện nay, chùa chiền lớn nhỏ được xây dựng la liệt, có những ngôi chùa rất lớn, choán những không gian rất rộng. Tệ nạn buôn thần bán thánh, mượn cớ du lịch tâm linh để giải tội, kiếm chác lợi lộc đang hoành hành, khiến dư luận xã hội rất bất bình. Một số bộ phận nhân dân làm sai dã đành, cơ sở chăm sóc việc thờ phụng cũng phải có trách nhiệm một phần không nhỏ. Tiểu thuyết Mộng đế vương nói về một nền đạo nhỏ lẻ kỳ lạ, bát nháo đã gợi cho độc giả suy nghĩ về hoạt động cuả tín đồ đạo Phật chính danh hôm nay.