Tự lấy dây buộc mình

25-12-2012 11:07 | Thời sự
google news

Trong những ngày vừa qua, thông tin về việc trong số 93 mẫu chè của các công ty, doanh nghiệp gửi đi phân tích tại châu Âu, có tới 49 mẫu phát hiện tồn dư thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép khiến cả người dân và doanh nghiệp đều đứng ngồi không yên.

Trong những ngày vừa qua, thông tin về việc trong số 93 mẫu chè của các công ty, doanh nghiệp gửi đi phân tích tại châu Âu, có tới 49 mẫu phát hiện tồn dư thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép khiến cả người dân và doanh nghiệp đều đứng ngồi không yên.
 
Người dân lo vì sản phẩm làm ra không bán được cũng “chết” mà sản phẩm tồn dư thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng uống vào cũng “chết”. Còn doanh nghiệp, hàng không bán được, không xuất được, đi không được, ở chẳng xong thì càng “chết”.
Tự lấy dây buộc mình 1
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Câu chuyện chè tồn dư thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép không phải bây giờ mới được nhắc đến, trong những năm qua, việc các cơ quan chức năng cảnh báo người trồng chè lạm dụng thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc diệt cỏ... để đẩy nhanh quá trình phát triển của cây đã được nhắc đến nhiều. Sau mỗi lứa hái là thời gian phun thuốc sâu và đợi chè lên búp, trung bình mỗi tháng, chè được người dân phun 3 - 4 lần. Để kích thích chè, lách quy định của nhà máy, người dân đã phun loại thuốc kích thích tăng trưởng trôi nổi chứa hàm lượng nitơ, chất thiozan có mùi hôi thối và cực kỳ độc hại. Ngoài ra, để tiết kiệm thời gian, nhân công, thay vì làm cỏ, người dân lại sử dụng thuốc diệt cỏ. Phần lớn những loại thuốc người dân sử dụng đều mua ngoài luồng.

Thực tế việc sản xuất, chế biến chè nhiều năm nay luôn trong tình trạng không thể kiểm soát được việc sử dụng thuốc trừ sâu và các loại hóa chất. Do đó, tỷ lệ số mẫu chè không đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn luôn rất cao và chiếm hơn nửa số mẫu gửi đi kiểm nghiệm.

Trong khi đó, theo Hiệp hội chè Việt Nam, 90% sản lượng chè nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế biến hiện nay thuộc sở hữu của nông dân và nông dân tự quyết định việc phun thuốc BVTV như thế nào. Điều này đang gây rất nhiều khó khăn cho việc kiểm soát chất lượng và dư lượng thuốc BVTV. Trong 10 tháng đầu năm 2012, Cục BVTV đã tiến hành lấy 30 mẫu chè tại thị trường Hà Nội và TP.HCM để phân tích 12 hoạt chất thuốc BVTV/mẫu. Kết quả cho thấy, không phát hiện mẫu chè nào chứa dư lượng thuốc BTVT vượt ngưỡng tối đa cho phép. Tuy nhiên, đã phát hiện 27/30 mẫu phát hiện có tồn dư thuốc BVTV, với số lượng từ 1 - 4 hoạt chất, nhưng thấp hơn mức dư lượng tối đa cho phép. Điều này cho thấy, nguy cơ mất ATTP trên chè vẫn còn rất tiềm ẩn.

Một nguyên nhân chủ yếu nữa xảy ra tình trạng trên là do không kiểm soát được quá trình sản xuất từ trồng đến chăm sóc, thu hái, chế biến và bảo quản... Theo Hiệp hội Chè Việt Nam: Cả nước hiện có trên 300 cơ sở chế biến chè lớn nhỏ, công nghiệp và thủ công thì có tới 85% cơ sở mua nguyên liệu trôi nổi không kiểm soát được chất lượng, 10% có hợp đồng mua bán giữa nhà máy với hộ dân trồng chè, chỉ 5% số nhà máy có vùng nguyên liệu riêng để phục vụ chế biến. Điều này là rất đáng báo động.

Năm 2012, nhiều sản phẩm chè từ các doanh nghiệp có uy tín vẫn giữ được chất lượng, đảm bảo được uy tín với khách hàng trong và ngoài nước, đem lại nguồn lợi lớn, giữ được thương hiệu chè Việt. Năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu 150.000 tấn chè, tăng 15% so với năm 2011 và đạt khoảng 220 triệu USD. Nhưng cũng chính do cách làm ăn manh mún, chưa được kiểm soát chặt chẽ đã và đang đẩy không ít người dân và doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè vào tình cảnh bất lợi. Câu trả lời chính từ thực tế kiểm nghiệm các sản phẩm chè được gửi đi châu Âu kiểm nghiệm.

Không thể chậm trễ, các ban, ngành chức năng và cả người dân cần bắt tay vào cuộc để chấn chỉnh thực trạng trên, tránh đẩy ngành chè và hơn hết là người dân và các doanh nghiệp vào vòng xoáy “lấy dây buộc mình”.

Ngọc Phương


Ý kiến của bạn