Kỳ tích trên đỉnh Olympic của xạ thủ Hoàng Xuân Vinh sẽ tạo ra một cú “hích” lịch sử cho Thể thao Việt Nam. Thế nhưng việc phát huy, tận dụng như thế nào để tăng tốc phát triển lại phụ thuộc cả vào ngành thể thao vốn đang bị bó buộc bởi rất nhiều rào cản.
Xuân Vinh “kích cầu”
Thành quả giành 1 HCV, 1 HCB cùng kỷ lục Olympic của Xuân Vinh đã chứng tỏ tiềm năng, nội lực và sức vươn của người Việt Nam, cụ thể là lĩnh vực thể thao. Chúng ta có những con người tài năng đủ sức chinh phục những đỉnh cao nhất của thế giới. Thành công đó cũng chứng tỏ bước chuyển về nhận thức cùng hiệu quả đầu tư của ngành thể thao. Kể từ 2010, cách nghĩ, cách làm đã bắt đầu có bước chuyển rõ rệt với sự ưu tiên cho các môn Olympic, cho các tuyển thủ trụ cột ở những môn có thế mạnh. Đơn cử ở “chiến dịch Rio” 2016, ngành thể thao đã dành 40 tỷ đồng để đào tạo tập trung cho 46 tuyển thủ của 12 môn. Rồi một số niềm hy vọng tranh huy chương được tạo điều kiện để xuất ngoại tập huấn, cọ xát tại các trung tâm hàng đầu, nhiều giải đấu hàng đầu.
Có thể tin rằng xã hội sẽ có cái nhìn lại, nhìn khác, nhìn sâu về thể thao như một lĩnh vực có vai trò rất đặc biệt, nhất là trong việc nâng cao thể chất nhân dân, vị thế quốc tế của đất nước. Thể thao sẽ có thể có thêm nhiều nguồn lực hơn để phát triển, trên cả hai phương diện kinh phí và phong trào chung. Trong đó, việc phát hiện, đào tạo tài năng thể thao chắc chắn sẽ được hưởng lợi rất nhiều. Chuyện chăm lo, đãi ngộ đối với các HLV, VĐV sẽ tốt hơn. Có thể thấy rõ điều này qua hiệu ứng, sức lan tỏa của “hiện tượng Ánh Viên” ở SEA Games 28.
Những tấm huy chương mà Hoàng Xuân Vinh giành được tại Olympic 2016 sẽ là bước ngoặt cho TTVN vươn tầm cao mới. Ảnh: CTV
Những rào cản từ nền tảng
Với Xuân Vinh, ngành thể thao đang đứng trước một cơ hội lịch sử để tăng tốc, song cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức, rào cản.
Rõ nhất về kinh phí. Đơn cử con số 40 tỷ đồng mà ngành thể thao được cấp cho cả quá trình chuẩn bị, dự tranh Olympic, dù đã tăng lên đáng kể so với Đại hội trước song còn rất thấp so với mặt bằng chung quốc tế. Ngay như Thái Lan chi tới 200 tỷ, gấp 4 lần Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể đáp ứng một cách tương đối nhu cầu của các tuyển thủ, kể cả những người có hy vọng tranh huy chương. Cả bộ môn bắn súng của Xuân Vinh chỉ có 200.000 USD mỗi năm, đủ biết thầy trò họ phải quyết tâm, nỗ lực vượt khó ra sao.
Thể thao Việt Nam cũng đang rất thiếu các điều kiện cơ sở vật chất tại chỗ. Ví như cả môn bắn súng chỉ có một trường bắn lạc hậu tới 20 năm, đang dùng hệ thống bia giấy mà thế giới đã bỏ từ lâu. Hay cả môn cử tạ không có địa điểm nào đạt tiêu chuẩn tối thiểu so với quốc tế, thậm chí không có phòng tập thể lực, hồi phục. Trang thiết bị dụng cụ, nhìn vào môn nào cũng thấy thiếu và cũ, từ bắn súng, đấu kiếm, đua thuyền, thể dục dụng cụ... Ngành thể thao đã cố gắng khắc phục bằng cách đưa quân ra nước ngoài, song lại vấp phải bài toán kinh phí.
Tất cả đã tạo nên một vòng luẩn quẩn, bó buộc, gắn với một cách nghĩ, cách làm còn mang nặng tính “dàn trải, thời vụ” theo kiểu SEA Games của ngành thể thao. Việt Nam chỉ chuẩn bị cho Olympic gần như chỉ trong khoảng 2 năm, trong khi các nước muốn có VĐV tranh chấp được huy chương phải theo một chu kỳ 4-6, thậm chí 8 năm. Đích nhắm chính của ngành thể thao mới chỉ là đoạt suất, còn chưa thực sự sẵn sàng cho việc tranh huy chương.
Làm gì để đột phá?
Thể thao Việt Nam đang đi đúng hướng với những chuyển biến tích cực song vẫn còn chậm, còn thiếu và chưa đủ để có thể có một thành tích, thứ hạng tốt ở Olympic. Cụ thể là việc giành huy chương ổn định như mục tiêu được nêu trong chiến lược phát triển.
Kỳ tích của Xuân Vinh sẽ là một bước ngoặt để chúng ta xác lập mục tiêu “vươn lên tầm châu Á, tấn công vào Olympic” từng giống như một khẩu hiệu cho có. Ở đây, toàn ngành thể thao cần phải thay đổi quyết liệt từ nhận thức tới cách làm. Ngay từ 2010, chúng ta đã xác lập 10 môn thể thao trọng điểm nhóm 1, song chưa làm được gì nhiều.
Ngành thể thao cũng cần sớm tham mưu Nhà nước để có một đề án đào tạo VĐV trọng điểm cho Olympic, ASIAD với các giải pháp chuyên biệt, với nguồn kinh phí riêng đảm bảo. Trước đây, chúng ta từng có một đề án như vậy, được thực hiện trong nhiều năm, với mức đầu tư hàng trăm tỷ đồng/năm, góp phần đắc lực để Việt Nam có một lực lượng hùng hậu giành ngôi nhất tại SEA Games 2003. Chỉ tiếc rằng, ngay sau đó, đề án không được tiếp tục.
Ngành thể thao cũng cần phải có chính sách nhằm xã hội hóa mạnh mẽ nhằm huy động các nguồn lực cho việc phát hiện, đào tạo, chăm lo cho các tài năng, nhất là thông qua các Liên đoàn - Hiệp hội thể thao quốc gia. Quá khó để có thể đột phá nếu kinh phí cho cả mảng đào tạo, tập huấn thi đấu của VĐV chỉ có thể đáp ứng 60% nhu cầu thực tế.